Xu Hướng 9/2023 # Top Bài Thơ Về Mùa Xuân Ngắn Hay Và Nổi Tiếng Nhất 2023 # Top 17 Xem Nhiều | Kmli.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Top Bài Thơ Về Mùa Xuân Ngắn Hay Và Nổi Tiếng Nhất 2023 # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Top Bài Thơ Về Mùa Xuân Ngắn Hay Và Nổi Tiếng Nhất 2023 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Kmli.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Có hôm nay một buổi sớm mai đời.

Ta là mình, mà anh cũng là tôi.

Phố Đại Từ hay Cao Vân chẳng biết!

Gió đem tơ đi nối những chân trời,

Đường xuyên rừng hay đường lại Thủ Đô?

Mùi chiến thắng gieo trong không khí nở,

Tôi bước đi trên những đường phá vỡ,

Cũng thêu thùa những đường nắng mênh mông.

Một ngày xuân xanh tươi như mắt biếc,

Một Ngày Xuân – Xuân Diệu

Chưa từng hẹn đến – giữa xuân tươi

Thiếu nữ bâng khuâng đợi một người

Xui khiến lòng ai thấy nặng nề…

Nỗi gì âu yếm qua không khí

Bên màu hoa mới thắm như kêu

Ánh sáng ôm trùm những ngọn cao

Vội Vàng – Xuân Diệu

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

Của ong bướm này đây tuần trăng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si.

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian.

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Xuân đầu

Trời xanh thế! Hàng cây thơ biết mấy!

Vườn non sao! Đường cỏ mộng bao nhiêu.

Khi Phạm Thái gặp Quỳnh Như thuở ấy,

Khi chàng Kim vừa được thấy nàng Kiều.

Hỡi năm tháng vội đi làm quá khứ!

Trời về đây! Và đem trở về đây

Rượu nơi mắt với khi nhìn ướm thử,

Gấm trong lòng và khi đứng chờ ngây.

Và nhạc phất dưới chân mừng sánh bước;

Và tơ giăng trong lời nhỏ khơi ngòi;

Tà áo mới cũng say mùi gió nước;

Rặng mi dài xao động ánh dương vui.

Thiêng liêng quá, những chiều không dám nói,

Những tay e, những đầu ngượng cúi mau;

Chim giữa nắng sao mà kêu đến chói!

Ôi vô cùng trong một phút nhìn nhau!

Cho ta xin, cho ta xin sắc đỏ,

Xin màu xanh về tô lại khung đời…

Trời ơi, trời ơi, đâu rồi tuổi nhỏ?

Hôm xưa đâu rồi, trời ơi! trời ơi!

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tỏ Lòng ❤️️ 18 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tỏ Lòng ❤️️ 18 Bài Văn Ngắn Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Các Mẫu Văn Cảm Nhận Và Phân Tích Độc Đáo, Đầy Ấn Tượng Về Tác Phẩm

Tham khảo Dàn Ý Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng ngắn gọn và đầy đủ thông tin tác phẩm

Dàn Ý Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng

Mở bài

Giới thiệu tác giả Phạm Ngũ Lão

Là người văn võ toàn tài, để lại cho đời hai tác phẩm Thuật hoài (Tỏ lòng) và Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương.

Giới thiệu bài thơ Tỏ lòng:

Ra đời sau những chiến thắng vẻ vang của quân và dân nhà Trần đánh đuổi quân Nguyên Mông xâm lược.

Bài thơ làm sống dậy khí thế của thời đại với niềm vui, niềm tự hào. Đồng thời cũng thể hiện ý thức làm người và chí hướng lập công của nam nhi.

Thân bài

Hào khí Đông A qua hình tượng trang nam nhi và sức mạnh quân đội nhà Trần.

a. Hình tượng trang nam nhi nhà Trần (câu 1)

Tư thế “hoành sóc”: Múa giáo

Bản dịch nghĩa dịch “cắp ngang ngọn giáo” diễn đạt sự vững trãi, kiên cường, uy dũng, tư thế sẵn sàng chiến đấu của người lính.

Bản dịch thơ dịch thành “múa giáo”: Thiên về phô trương biểu diễn, không thể hiện sức mạnh nội lực vì vậy không truyền tải được ý nghĩa hình ảnh thơ trong nguyên tác.

Không gian “giang sơn”: Không chỉ là sông núi mà còn chỉ non sông, đất nước, tổ quốc.

→ Không gian vũ trụ rộng lớn để nam nhi nói chí tỏ lòng

Thời gian “kháp kỉ thu”: mấy thu – mấy năm

→ Thời gian trải dài, thể hiện quá trình bền bỉ chiến đấu lâu dài.

⇒ Chính thời gian, không gian đã nâng cao tầm vóc của người anh hùng vệ quốc, họ trở nên lớn lao kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, trời đất, bất chấp sự tàn phá của thời gian họ vẫn luôn bền bỉ cùng nhiệm vụ.

b. Sức mạnh của quân đội nhà Trần (Câu 2)

“Tam quân”: Ba quân – tiền quân, trung quân, hậu quân. Hình ảnh chỉ quân đội nhà Trần.

Sức mạnh của quân đội nhà Trần: “tì hổ”, khí thôn ngưu”

Quân đội được so sánh với “tì hổ” – hổ báo: loài mãnh thú chốn rừng sâu qua đó cụ thể hóa sức mạnh và sự dũng mãnh, khí thế hừng hực làm chủ của quân đội nhà Trần.

Tác giả làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu”: Là biểu tượng chỉ người trẻ tuổi mà khí phách anh hùng.

→ Với các hình ảnh so sánh, phóng đại, tác giả đã thể hiện sự ngợi ca, tự hào về sức mạnh, khí thế của quân đội nhà Trần đập tan âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Tiểu kết

Nội dung:

Hai câu thơ đầu làm sống dậy thời đại nhà Trần với hào khí Đông A vang núi dậy sông bằng hình ảnh của những người anh hùng vệ quốc tư thế hiên ngang, kiêu dũng tầm vóc sánh ngang tầm vũ trụ cùng lực lượng quân đội hùng hậu khí thế ngút trời.

Ẩn sau đó là niềm tự hào của tác giả về sức mạnh và chiến công của dân tộc. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước

Nghệ thuật:

Bút pháp gợi, không tả, kể chi tiết

Sử dụng các hình ảnh ước lệ: Kháp kỉ thu, tì hổ, khí thôn ngưu

Sử dụng các biện pháp so sánh, ước lệ độc đáo

2. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão

Nợ công danh: Theo quan niệm nhà Nho, đây là món nợ lớn mà một trang nam nhi khi sinh ra đã phải mang trong mình.

Nó gồm 2 phương diện: Lập công (để lại chiến công, sự nghiệp), lập danh (để lại danh thơm cho hậu thế). Kẻ làm trai phải làm xong hai nhiệm vụ này mới được coi là hoàn trả món nợ.

Liên hệ với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ. Họ đều là những người trăn trở về món nợ công danh.

Phạm Ngũ Lão quan niệm: Thân nam nhi mà không lập được công danh sự nghiệp thì “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.

Thẹn: Tự cảm thấy mình chưa bằng người khác, cảm giác thua kém, xấu hổ

Vũ Hầu: Tức Khổng Minh là tấm gương về tinh thần tận tâm tận lực báo đáp chủ tướng. Hết lòng trả món nợ công danh đến hơi thở cuối cùng, để lại sự nghiệp vẻ vang và tiếng thơm cho hậu thế.

Phạm Ngũ Lão: Con người từ thuở hàn vi vì lo việc nước quên sự nguy hiểm của mình, hết lòng phục vụ nhà Trần, được phong tới chức Điện Súy, tước Nội Hầu. Vậy mà ông vẫn cảm thấy hổ thẹn.

→ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão hết sức cao cả của một nhân cách lớn. Thể hiện khát khao, hoài bão hướng về phía trước để thực hiện lí tưởng.

→ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão đánh thức ý chí làm trai, chí hướng lập công cho các trang nam tử đời Trần.

⇒ Bài học đối với thế hệ thanh niên ngày nay: Sống phải có ước mơ, hoài bão, biết vượt qua khó khăn, thử thách để biến ước mơ thành hiện thực, có ý thức trách nhiệm với cá nhân và cộng đồng.

Tiểu kết

Nội dung: Hai câu thơ thể hiện nỗi thẹn cao cả của một nhân cách lớn. Qua đó thể hiện tinh thần yêu nước, khích lệ ý chí lập công lập danh của nam nhi đời Trần.

Nghệ thuật: Sử dụng điển cố “thuyết Vũ Hầu”, bút pháp gợi kết hợp với bút pháp biểu cảm.

Kết bài

SCR.VN chia sẽ bạn đầy đủ các mẫu 👉 Dàn Ý Bài Tỏ Lòng ❤️ Ngắn, Chuẩn Nhất

Chia sẻ đến bạn đọc những bài mẫu Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng Ngắn Gọn

Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là một nội dung lớn, bao trùm và xuyên suốt văn học giai đoạn này với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng.

Bài thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của tác giả Phạm Ngũ Lão là một trong số những tác phẩm tiêu biểu. Ra đời sau chiến thắng Mông – Nguyên của quân đội nhà Trần, bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp của hào khí Đông A, sức mạnh của con người và quân đội thời Trần.

Đọc bài thơ, người đọc có thể nhận thấy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực hình tượng của con người và quân đội thời trần. Trước hết đó chính là hình tượng con người thời Trần được khắc họa qua câu thơ đầu tiên:

Câu thơ đã vẽ lên hình ảnh con người tay cầm ngang ngọn giáo mà bảo vệ, trấn giữ quê hương, đất nước. “Cầm ngang ngọn giáo” là một hành động rất mạnh mẽ, nó gợi lên tư thế hiên ngang, hùng dũng, sẵn sàng chiến đấu của người chiến sĩ.

Thêm vào đó, hình tượng quân đội nhà Trần tràn đầy sức mạnh và khí thế cũng được tác giả Phạm Ngũ Lão tái hiện thật sống động, rõ nét.

“Tam quân” chính là ba quân trong được quân đội nhà Trần xây dựng, đó là tiền quân, trung quân và hậu quân.

Thêm vào đó, câu thơ với việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh so sánh và lối nói phóng đại khi so sánh quân đội nhà Trần với “tì hổ” – sức mạnh của loài hổ báo, nó có thể át đi cả sao Ngưu trên trời đã cho thấy khí thế dũng mãnh, hào hùng của quân đội nhà Trần.

Đó cũng chính là sức mạnh, là khí thế của hào khí Đông A được cả dân tộc tự hào.

Như vậy, hai câu thơ mở đầu bài thơ, với hình ảnh so sánh, phóng đại và giọng điệu hào hùng đã khắc họa một cách rõ nét tư thế hiên ngang, bất khuất của các tráng sĩ thời Trần cùng sức mạnh, tầm vóc mạnh mẽ của quân đội nhà Trần.

Nếu hai câu thơ mở đầu bài thơ đã thể hiện hình tượng con người và quân đội thời Trần thì trong hai câu thơ còn lại tác giả đã tập trung làm bật nổi nỗi lòng của chính mình.

Theo quan niệm của Nho giáo, công danh chính là lập công, ghi danh sử sách để tiếng thơm còn vương lại đến muôn đời sau, đây cũng chính là một món nợ lớn đối với mỗi trang nam nhi.

“Công danh” dường như đã trở thành lí tưởng đối với nam nhi dưới thời đại phong kiến. Là một người văn võ song toàn, từng ghi được nhiều chiến công, nhưng với ông, mình vẫn còn mắc nợ – món nợ “công danh”.

Hai chữ “vương nợ” trong bản dịch thơ như khắc sâu thêm nỗi niềm da diết trong lòng tác giả, ông vẫn luôn tự ý thức một cách sâu sắc về trách nhiệm của mình với quê hương, với đất nước.

Không dừng lại ở đó, hai câu thơ còn cho chúng ta thấy được vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn của Phạm Ngũ Lão.

Vẻ đẹp ấy được thể hiện qua nỗi “thẹn” của ông với Vũ Hầu. Như chúng ta đã biết, Vũ Hầu tức là Gia Cát Lượng, một nhân vật lịch sử lỗi lạc và là một con người tài năng, một bề tôi trung thành, đã từng nhiều lần giúp đỡ Lưu Bị khôi phục nhà Hán.

Nỗi “thẹn” ấy của Phạm Ngũ Lão xét đến cùng là biểu hiện của một nhân cách cao đẹp, nó đánh thức chí làm trai đàn cuồn cuộn trong ông và đồng thời cũng thể hiện lí tưởng, hoài bão của tác giả.

Như vậy, hai câu thơ khép lại bài thơ với âm hưởng trầm lắng, đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cao cả của Phạm Ngũ Lão cùng quan điểm tiến bộ về chí làm trai của ông.

Tóm lại, bài thơ “Thuật hoài’ với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt hàm súc, ngôn ngữ cô đọng đã thể hiện được hình tượng, khí thế hiên ngang, dũng mãnh của con người và quân đội thời Trần.

Đồng thời, qua đó cũng giúp người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nhà thơ Phạm Ngũ Lão.

Bên cạnh văn mẫu cảm nhận Tỏ Lòng, Chia Sẻ Thêm 🌼 Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng ❤️️ 10 Bài Phân Tích Thuật Hoài

Thời đại nhà Trần là thời kỳ vàng son của Hào khí đông A, hào khí ấy đã trở thành một sức mạnh tinh thần to lớn của quân và dân ta trong một thời đại đầy hào hùng máu lửa.

Hào khí đông A đã thể hiện được tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm chống giặc của dân tộc. Từ âm vang của thời đại, của hào khí Đông A sóng dậy, Phạm Ngũ Lão đã sáng tác nên bài thơ Tỏ lòng đầy đặc sắc và ý nghĩa:

Dịch thơ:

Giặc Nguyên tràn vào xâm lược, chúng tàn ác về nhân tính, hung bạo về nhân hình bởi lực lượng lớn mạnh và sức càn quét đáng sợ. Đối phó với kẻ thù man rợ và nguy hiểm ấy cần có một bản lĩnh gan dạ phi thường.

Ở đây, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được tầm vóc của mình và sức mạnh to lớn của quân đội nhà Trần. ” hoành sóc giang sơn”, giữa giang sơn rộng lớn, người tráng sĩ cầm ngọn giáo giặc trong thế hiên ngang để trấn giữ Tổ quốc mình.

Ngọn giáo ngang tàng đo chiều dài, chiều rộng đất nước, kẻ quân tử nắm ngọn giáo đứng sừng sững, làm chủ trước dân tộc, trước thời cuộc.

Câu thơ thứ hai mang cả ý chí quyết đấu của toàn dân tộc. Sự đồng lòng của “tam quân” tạo nên một sức mạnh được ví như hổ báo, chúa sơn lâm của núi rừng, khí thế ngùn ngụt chất cao hơn núi “nuốt trôi trâu”.

Nếu ở câu thơ thứ nhất là bản lĩnh của một người quân tử, trách nhiệm của một cá nhân với đất nước thì sang câu thơ thứ hai đó là bản lĩnh của một cộng đồng, của trăm vạn người quân tử, trách nhiệm của muôn người với dân tộc.

Qua đó, ta thấy được một hào khí của thời đại, của những con người chung chí nguyện chống giặc, dẹp tan quân thù, đem lại hoà bình cho xã tắc, giang san.

“Đất nước còn nhiều những thách thức, khó khăn, vật cản trên con đường đấu tranh còn nhiều gian khó, dù đã quyết chí, dù đã vững lòng nhưng tác giả vẫn còn điều gì đó chưa hài lòng khi nghĩ về bản thân. Bởi thế mà những câu thơ được bộc bạch đầy tâm trạng, chứa chan nỗi lòng của người quân tử:

Dịch thơ:

Công danh sự nghiệp luôn là khát khao của con người trong bất kỳ thời đại nào. Phạm Ngũ Lão cũng không nằm ngoài nỗi ưu tư về công danh của mình, dù ông đã là một kẻ tài cao, đức trọng, lập báo chiến công chỗ đất nước.

Kẻ “nam tử” lúc này đây vẫn thấy mình còn một mối nợ với đất nước, đó là tấm lòng của một bậc đại tài đầy khiêm tốn và trách nhiệm.

” Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Tác giả mượn điển cố xưa về Vũ Hầu- một kẻ bề tôi trung thành, vị quân sư tài ba bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa. Đó là lòng cảm thấy hổ thẹn, không thể hài lòng về bản thân khi nhắc đến bậc vĩ nhân xưa.

Với tác giả, không thể nào chấp nhận một cuộc sống không công danh, một sự tồn tại nằm ngoài trách nhiệm với dân tộc, với đất nước.

Bài thơ được viết nên bởi cả tấm lòng của người quân tử. Chỉ với 4 câu thơ thôi nhưng ý tứ thật sâu sắc, chí nguyện giúp đời cứu nước thật lớn lao.

Bài thơ đã thôi thúc trong lòng em ý thức sống trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước mình, sẽ sống hết mình, cống hiến thật nhiều cho sự phát triển của Tổ quốc hôm nay và mai sau.

SCR.VN Chia Sẽ Thêm 15 Mẫu ❤️️ Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tỏ Lòng ❤️️ HAY NHẤT

Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Tỏ Lòng Ngắn Nhất:

Bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được tinh thần của thời đại nhà Trần. Đó là vẻ đẹp của hào khí Đông A, cũng như sức mạnh của con người và quân đội thời Trần.

Đến với hai câu thơ đầu tiên, người đọc có thể thấy được một cách rõ nét, chân thực hình ảnh con người, quân đội thời Trần:

Câu thơ cho thấy hình ảnh người anh hùng tay cầm ngọn giáo để chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước. Đồng thời, tác giả còn đặt người anh hùng vào không gian “giang sơn” – rộng lớn của đất nước và thời gian “kỷ thu” – vô tận, kéo dài từ năm này qua năm khác để tô đậm thêm tư thế hiên ngang của người anh hùng. Tiếp đó, hình tượng quân đội nhà Trần với tiềm lực mạnh mẽ cũng được nhà thơ thể hiện rõ ràng. Với hình ảnh “Tam quân” có nghĩa là ba quân đã cho thấy đó là một quân đội tinh nhuệ, cả về số lượng lẫn chất lượng. Không chỉ vậy, Phạm Ngũ Lão còn làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh so sánh: “tì hổ” – sức mạnh như loài hổ, “khí thôn ngưu” – khí thế hào hùng ngút trời của quân đội nhà Trần đã làm lu mờ ánh sáng của sao Ngưu. Đó chính là sức mạnh của con người, quân đội nhà Trần.

Nếu hai câu thơ mở đầu, Phạm Ngũ Lão muốn làm nổi bật vẻ đẹp của con người, đội quân nhà Trần. Thì hai câu thơ cuối, tác giả tập trung thể hiện nỗi lòng của chính mình:

Theo tư tưởng Nho giáo, “công danh” chính là lập công để lưu danh vào sử sách, để lưu lại tiếng thơm cho đời sau. Đó chính là một món nợ lớn của bất kì đấng nam nhi nào thời xưa. “Công danh” đã trở thành lý tưởng đối với họ dưới trong triều đại phong kiến. Phạm Ngũ Lão là một người văn võ song toàn, nhưng vẫn luôn thấy bản thân còn mắc nợ – món nợ “công danh”. Nhà thơ đã mượn điển tích về nhân vật Vũ Hầu – một bề tôi trung thành nhất nhì trong lịch sử Trung Quốc để nói chí tỏ lòng. Khi nhắc đến điển tích này, Phạm Ngũ Lão tự cảm thấy “thẹn” – hổ thẹn với lòng khi chưa lập được công danh với đời. Qua đó, ta thấy được một nhân cách cao đẹp của nhà thơ, với hoài bão to lớn đáng ngưỡng mộ.

Với “Tỏ lòng’, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện rõ sức mạnh của “hào khí Đông A”. Đồng thời, bài thơ đã thôi thúc trong lòng người đọc một ý thức trách nhiệm với quê hương, đất nước.

Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Tỏ Lòng Nâng Cao:

Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Phạm Ngũ Lão đó là bài thơ “Tỏ lòng”. Bài thơ đã đem đến cho người đọc cảm nhận về hào khí Đông A, cũng như sức mạnh của con người và quân đội nhà Trần:

Mở đầu bài thơ, tác giả đã cho người đọc thấy được hình ảnh người anh hùng hiện lên qua câu thơ đầu mang tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, mạnh mẽ:

“Hoành sóc giang sơn, kháp kỉ thu”

Chỉ với một câu thơ nhưng nhà văn đã dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Cây giáo mang mang kích cỡ, tầm vóc của vũ trụ. Đồng thời sự kì vĩ càng hiện rõ trong mối quan hệ giữa không gian và thời gian. Đối với không gian đó là sự mở ra theo chiều rộng sông núi (giang sơn), còn với thời gian đó là sự trường tồn vĩnh cửu (kháp kỉ thu).

Hình tượng người anh hùng tiếp tục được nâng lên qua khí thế quật khởi của thời đại ở câu thơ thứ hai:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

“Tam quân” (ba quân) là để nói về quân đội nhà Trần, đồng thời còn là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh dân tộc. Nghệ thuật so sánh đã vừa cụ thể hóa sức mạnh vật chất của “ba quân” (mạnh như hổ báo) vừa hướng tới khái quát hóa sức mạnh tinh thần của đội quân mang hào khí Đông Á (khí thế át sao trời). Không chỉ vậy, câu thơ tiếp theo, Phạm Ngũ Lão còn cho thấy tiềm lực mạnh mẽ của quân đội nhà Trần.“Tam quân” có nghĩa là ba quân (tiền quân, trung quân, hậu quân). Một quân đội tinh nhuệ, đông đảo về số lượng và mạnh mẽ về chất lượng. Quân đội đó cũng có một khí thế vững vàng. Hình ảnh so sánh rất độc đáo “tam quân” với “tỳ hổ”. Loài hổ được coi là chúa tể rừng xanh, có uy lực và sức mạnh. Hình ảnh so sánh đã nhấn mạnh sức mạnh dũng mãnh của quân đội nhà Trần đã trở thành nỗi khiếp đảm của quân thù. Không chỉ vậy, Phạm Ngũ Lão còn làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu”. Đây là hình ảnh gợi ra hai cách hiểu. Khí thế của ba quân hùng mạnh đến nỗi nuốt trôi trâu, hay khí thế hào hùng ngút trời của quân đội nhà Trần đã làm lu mờ ánh sáng của sao Ngưu trên bầu trời.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn gửi gắm chí hướng của bản thân qua bài thơ:

Vẻ đẹp nhân cách của của người dũng tướng được thể hiện ngay ở nỗi “thẹn”. Đó là nỗi “thẹn” khi chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Nỗi thẹn xuất phát từ khát vọng, hoài bão lớn lao của người anh hùng muốn được cống hiến cho đất nước vô cùng lớn, nên công danh của ông lập được còn bé nhỏ. Nhưng, nỗi “thẹn” ấy sẽ là động lực để chúng ta tiếp tục phấn đấu, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống. Thật đáng khâm phục biết bao trước chí hướng của một con người.

Vẻ đẹp tráng lệ của hình tượng người anh hùng thời Trần trong “Tỏ lòng” được thể hiện bằng bút pháp nghệ thuật đặc sắc. Hình tượng người anh hùng “sát thát” được thể hiện bằng ngôn ngữ tráng lệ, kỳ vĩ gợi ra dáng vóc của những người anh hùng trong thần thoại và người dũng tướng trong sử thi. Tuy là bài thơ “nói chí tỏ lòng”, nhưng không hề khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu tượng hàm súc, giàu ý nghĩa.

Như vậy, bài thơ “Tỏ lòng” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về một thời đại với hào khí Đông A đầy sôi nổi.

Nếu Bạn Vẫn Chưa Tìm Ra Bài Cảm Nhận Thuật Hoài Ưng Ý, Có Thể Tham Khảo Thêm 🌼 15 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tỏ Lòng ❤️️ Hay Nhất

Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Tỏ Lòng Điểm 10

Thời đại nhà Trần là thời kỳ vàng son của hào khí Đông A. Nó đã trở thành một sức mạnh tinh thần to lớn của quân và dân ta trong một thời đại đầy hào hùng máu lửa. Từ đó, mà Phạm Ngũ Lão đã sáng tác nên bài thơ “Tỏ lòng” vô cùng đặc sắc:

Dịch thơ:

Giặc Nguyên tràn vào xâm lược, chúng tàn ác về nhân tính, hung bạo về nhân hình bởi lực lượng lớn mạnh và sức càn quét đáng sợ. Đối phó với kẻ thù man rợ và nguy hiểm ấy cần có một bản lĩnh gan dạ phi thường. Ở đây, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được tầm vóc của mình và sức mạnh to lớn của quân đội nhà Trần. Cụm từ “hoành sóc giang sơn” gợi ra hình ảnh giữa giang sơn rộng lớn, người tráng sĩ cầm ngọn giáo giặc trong thế hiên ngang để trấn giữ Tổ quốc mình. Ngọn giáo ngang tàng đo chiều dài, chiều rộng đất nước, kẻ quân tử nắm ngọn giáo đứng sừng sững, làm chủ trước dân tộc, trước thời cuộc. Lúc này đây, người quân tử đứng giữa giang san của vũ trụ mà không hề nhỏ bé, trái lại đầy vững chãi, lớn lao, ngọn giáo và người quân tử đang thực hiện sứ mệnh mà dân tộc giao phó trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Tiếp đến “trải mấy thu” nghĩa là thời gian làm nhiệm vụ ấy đã lâu rồi và đến nay vẫn thế năm này qua năm khác vẫn không đổi dời ý chí, tháng năm không đo được ý chí người quân tử, lòng vẫn nhiệt huyết với công cuộc giữ nước của mình.

Câu thơ thứ hai mang cả ý chí quyết đấu của toàn dân tộc. Sự đồng lòng của “tam quân” tạo nên một sức mạnh được ví như hổ báo, chúa sơn lâm của núi rừng, khí thế ngùn ngụt chất cao hơn núi “nuốt trôi trâu”. Nếu ở câu thơ thứ nhất là bản lĩnh của một người quân tử, trách nhiệm của một cá nhân với đất nước thì sang câu thơ thứ hai đó là bản lĩnh của một cộng đồng, của trăm vạn người quân tử, trách nhiệm của muôn người với dân tộc. Qua đó, ta thấy được một hào khí của thời đại, của những con người chung chí nguyện chống giặc, dẹp tan quân thù, đem lại hoà bình cho xã tắc, giang san.

Khi đất nước còn nhiều những thách thức, khó khăn, vật cản trên con đường đấu tranh còn nhiều gian khó, dù đã quyết chí, dù đã vững lòng nhưng tác giả vẫn còn điều gì đó chưa hài lòng khi nghĩ về bản thân. Bởi thế mà những câu thơ được bộc bạch đầy tâm trạng, chứa chan nỗi lòng của người quân tử:

Dịch thơ:

Công danh sự nghiệp luôn là khát khao của con người trong bất kỳ thời đại nào. Phạm Ngũ Lão cũng không nằm ngoài nỗi ưu tư về công danh của mình, dù ông đã là một kẻ tài cao, đức trọng, lập báo chiến công chỗ đất nước. Kẻ “nam tử” lúc này đây vẫn thấy mình còn một mối nợ với đất nước, đó là tấm lòng của một bậc đại tài đầy khiêm tốn và trách nhiệm.

Tác giả mượn điển cố xưa về Vũ Hầu – một kẻ bề tôi trung thành, vị quân sư tài ba bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa. Đó là lòng cảm thấy hổ thẹn, không thể hài lòng về bản thân khi nhắc đến bậc vĩ nhân xưa. Với tác giả, không thể nào chấp nhận một cuộc sống không công danh, một sự tồn tại nằm ngoài trách nhiệm với dân tộc, với đất nước.

Chỉ với bốn câu thơ thôi nhưng ý tứ thật sâu sắc, chí nguyện giúp đời cứu nước thật lớn lao. Bài thơ “Tỏ lòng” đã thôi thúc trong lòng người đọc về ý thức sống trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước mình, sẽ sống hết mình, cống hiến thật nhiều cho sự phát triển của Tổ quốc hôm nay và mai sau.

Ngoài Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Tỏ Lòng 👉 Sơ Đồ Tư Duy Tỏ Lòng Phạm Ngũ Lão ❤️️10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay

Bài Cảm Nhận Bài Tỏ Lòng Dài Nhất:

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Dịch thơ tiếng Việt:

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

(Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu; dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu.)

So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai:

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.

(Dịch nghĩa: Khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời. Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu), đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh ấy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kỳ nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. Ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Bài Cảm Nhận Bài Tỏ Lòng Mở Rộng:

Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Toản, “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu,… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoành sóc giang san kháp kỉ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vỹ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang san) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỉ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo “tỳ hổ” quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mơ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoàng tráng, vũ trụ: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “sát thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

“Thuyền bè muôn đội

Tinh kỳ phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”

(Bạch Đằng giang phú)

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công đê đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.

“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vu anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông A”.

Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Tỏ Lòng Hay:

Với bài thơ “Tỏ lòng”, nhà thơ Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được “hào khí Đông A” nổi bật trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược. Cũng như cho người đọc thấy được tấm lòng cao đẹp của mình:

Khi giặc Nguyên tràn vào xâm lược nước ta. Chúng đã bộc lộ rõ sự tàn ác, hung bạo. Và để đối phó với kẻ thù man rợ và nguy hiểm ấy cần có một bản lĩnh phi thường. Với hai câu thơ này, Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được tầm vóc của con người cũng như quân đội nhà Trần. Cụm từ “hoành sóc giang sơn” cho thấy hình ảnh giữa giang sơn rộng lớn, người tráng sĩ cầm ngọn giáo giặc trong tư thế đầy hiên ngang để bảo vệ tổ quốc. Ngọn giáo là vũ khí đắc lực, cùng với người anh hùng xông pha trận mạc. Lúc này, người anh hùng đứng giữa không gian bao la của vũ trụ mà không hề nhỏ bé. Ngược lại họ mang một tầm vóc lớn lao, mạnh mẽ. “Trải mấy thu” – hình ảnh ước lệ thể hiện khoảng thời gian làm nhiệm vụ ấy đã kéo dài rất lâu, từ năm này qua năm khác. Nhưng dù có vậy, năm tháng không thể nào đo được ý chí người quân tử.

Hai câu thơ sau đã bộc bạch tâm trạng, chứa chan nỗi lòng của người nhà thơ:

Công danh sự nghiệp luôn là khát khao của con người trong bất kỳ thời đại nào. Nhà thơ Phạm Ngũ Lão cũng không phải ngoại lệ. Dù ông là một anh hùng đã lập được biết bao chiến công cho đất nước. Nhưng vẫn cảm thấy còn vương mối nợ công danh.

Tác giả mượn điển cố xưa về Vũ Hầu – một kẻ bề tôi trung thành trong lịch sử Trung Hoa. Từ đó bày tỏ sự hổ thẹn, cũng như không hài lòng về bản thân khi nhắc đến bậc vĩ nhân xưa. Từ đó, nhà thơ muốn thể hiện hoài bão tiếp tục được cống hiến cho đất nước.

Chỉ với bốn câu thơ nhưng ý tứ thật sâu sắc, đã thể hiện được nhiều ý nghĩa. Thế mới thấy tài năng sáng tác của Phạm Ngũ Lão – một con người văn võ toàn tài.

Gợi ý đến bạn đọc Cảm Nhận Về 2 Câu Thơ Đầu Bài Tỏ Lòng ấn tượng

Thời đại nhà Trần là một trong những thời đại oai hùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với chiến công ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên xâm lược. Nhắc đến chiến công ấy, ta không thể không nhớ tới Phạm Ngũ Lão – một danh tướng có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến bảo vệ nước nhà.

Ngoài cương vị một võ tướng, ông còn thích đọc sách, ngâm thơ. Bài thơ “Thuật hoài” vừa khắc họa sinh động hình tượng người tráng sĩ thời Trần hiên ngang, bất khuất; vừa thể hiện khát vọng cao đẹp của chính tác giả.

Ngay từ câu thơ đầu tiên, tác giả đã mở ra trước mắt người đọc một không gian bao la rộng lớn của sông núi. Cũng trong không gian mênh mông ấy, hình tượng người tráng sĩ thời Trần với tư thế hiên ngang, anh dũng sừng sững hiện lên.

Người tráng sĩ ấy cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ đất nước. Tư thế ấy, tầm vóc ấy như sánh ngang cùng giang sơn hùng vĩ.

Từ “hoành sóc” vừa khắc họa tư thế hiên ngang, bất khuất vừa tạo nên âm hưởng hào hùng. Người tráng sĩ canh giữ giang sơn không chỉ trong chốc lát. Thời gian dài đằng đẵng được tác giả nhắc đến qua ba từ “kháp kỉ thu” rất nhẹ nhàng.

Thời gian mấy thu dung hòa với không gian và con người tạo nên bức tranh có chiều sâu trong đó nổi bật là hình tượng người tráng sĩ hiên ngang, anh dũng. Câu thơ thể hiện lòng tự hào của tác giả đối với vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần.

“Tượng đài” người tráng sĩ dưới ngòi bút của danh tướng họ Phạm còn đẹp và đầy khí thế hơn khi được đem so sánh với đất trời, vũ trụ.

Tác giả đã lấy không gian bao la đo lòng dũng cảm, dùng thời gian vô tận thử ý chí. Con người được đặt giữa giang sơn non nước mênh mông mà không hề trở nên nhỏ bé.

Bởi “kháp kỉ thu” không chỉ được hiểu là nhiều mùa thu, nhiều năm đã qua mà là thời gian trải suốt một đời người, một thế hệ con dân yêu nước, dùng xương máu, lòng hi sinh của mình đắp lên bờ cõi nước nhà.

Đến câu thơ thứ hai, nhà thơ khiến người đọc cảm nhận một cách rõ nét khí thế của tam quân. Khí thế ấy được đặc tả qua cụm từ “khí thôn ngưu” – khí thế nuốt trâu đầy dũng mãnh. Đội quân ấy chính là tập hợp những tráng sĩ cầm ngang ngọn giáo bảo vệ Tổ quốc.

“Tam quân” với hào khí ngút trời, khí thế dũng mãnh, ý chí kiên cường có thể đánh tan mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc giang sơn.

Hai câu thơ đầu hiện lên với khí thế hào hùng và vẻ đẹp của con người thời Trần. Nó cũng thể hiện lòng tự hào của Phạm Ngũ Lão về con người thời đại ông. nhà thơ đã bộc lộ cái tài sử dụng ngôn từ cô đọng, hàm súc, giàu ý nghĩa.

“Khí thôn Ngưu” có hai cách hiểu. Một là quân đội nhà Trần hùng mạnh, khí thế đến mức át cả ngôi sao Ngưu trên bầu trời.

Hai là sức mạnh của “tam quân” khi ra trận hiên ngang, mạnh mẽ như nuốt trôi trâu. Dù hiểu theo nghĩa nào, người đọc vẫn hình dung được tầm vóc, vẻ phi thường của tráng sĩ đời Trần.

Cách miêu tả của tác giả lại một lần nữa là tấm gương sáng để các nhà thơ thế hệ sau học tập. Người đọc tiếp tục bắt gặp “hào khí Đông A” trong thơ của Hồ Chí Minh “Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu/ Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy”

Với bút pháp nghệ thuật xây dựng hình tượng người tráng sĩ mang hào khí đời Trần và ngôn ngữ thơ ngắn gọn, súc tích, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão đã góp một làn gió thổi bừng những trang lịch sử chói lọi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc.

Thời gian đã phủ một lớp bụi vô hình vào lịch sự, người tráng sĩ khắc trên vai chữ “sát Thát” năm nào nay cũng chỉ còn vang bóng và ngay cả tác giả cũng đã trở thành người thiên cổ.

Thế nhưng, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão sẽ luôn là một tác phẩm ghi dấu trong trái tim người đọc.

🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng 🌻 Khám phá trọn bộ Thơ Lê Anh Xuân 

Hòa chung cùng khí thế chiến đấu hào hùng, oanh liệt cùng với biết bao công trạng lẫy lừng của những vị tướng tài ba, Phạm Ngũ Lão là một trong những vị danh tướng được muôn đời mến mộ. Ông còn là một nhà thi sĩ xuất sắc của nền văn học Việt nam, nổi bật trong số ấy là bài thơ Tỏ Lòng.

Bằng tình yêu nước thương dân và khát vọng được cống hiến với sự nghiệp của đất nước, những tư tưởng tình cảm đấy đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn trong tác phẩm Tỏ lòng.

Tỏ lòng là một lời tâm sự của nhà thơ về những khát khao, hi vọng của một đấng nam nhi sống trên đời.

Qua đó, tác giả đã thể hiện sự yêu mến, lòng tự hào của những người lính chiến đấu của quân đội nhà Trần. Mở đầu bài thơ, ta đã thấy hình ảnh của danh tướng Phạm Ngũ Lão hiện lên thật oai hùng biết bao:

Câu thơ đầu tiên là một câu thơ có hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ mang tầm vóc to lớn của cả giang sơn. “Hoành sóc” tức chỉ những người anh hùng tay cầm ngang ngọn giáo tung hoành ngang dọc khắp muôn nơi.

Họ đã kiên cường chiến đấu muôn nẻo của chốn giang sơn đất nước này, không quản thời gian mệt mỏi suốt bao “kỷ thu”.

Câu thơ mang cả chiều dài của không gian và thời gian vào từng câu chữ. Nó càng thể hiện được tư thế của người chiến sĩ thuở “Bình Nguyên” khi ra trận chiến đấu.

Trong trận chiến ấy ta còn thấy được sự đoàn kết sức mạnh của ba quân kể có thể chiến thắng được giặc thù. Tác giả dùng hình ảnh “nuốt trôi trâu” tức là những kẻ thù giặc, tuy hung hăng to lớn nhưng cũng không khiến sức mạnh của quân ta bị lung lay.

Hình ảnh ẩn dụ so sánh ấy quả thực vô cùng độc đáo, để biểu hiện vị thế không bao giờ bị khuất phục của đội quân ta mà còn khơi nguồn cảm hứng, tự hào của muôn dân với những cống hiến của những vị danh hùng thời ấy.

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”

Một người “nam nhi” khi quyết tâm được ra trận luôn mang trong mình một tâm thế chiến đấu rằng: luôn phải chiến đấu hết mình không quản ngại gian khó để lập được chiến công, giành được chiến thắng cho dân tộc.

Khát vọng ấy là khát vọng chung của tất cả những đấng nam nhi thời bấy giờ. Tư tưởng “làm trai cho đáng nên trai”, những sứ mệnh trách nhiệm đang được giao trên đôi vai của họ về sự nghiệp giải phóng đất nước là mục tiêu sống của những người lính chiến đấu ấy.

Họ mơ ước và tự hào về những chiến công oanh liệt của mình. Sẽ thật vui sướng, hạnh phúc biết bao nhiêu khi tên tuổi của mình được sánh vai cùng với anh hùng Vũ Hầu Gia Cát lương.

Nhân đây, Phạm Ngũ Lão đã nhắc tới tài năng của Vũ Hầu như một tấm gương, điển tích điển cố mà muôn đời cần noi gương. Tác giả muốn nhắc nhở những tướng sĩ cần phải luôn trau dồi học tập, rèn luyện lòng dũng cảm và không bao giờ được ngủ quên trên chiến thắng.

Có như vậy, tên tuổi của họ mới không bị hổ thẹn với những thời tuyên thệ như trong thơ của Nguyễn Công Trứ:

Tức đã sinh ra trên thế gian này, nhất định phải được cống hiến, ghi danh với non sông để không làm hổ thẹn với đấng sinh thành, với vua cha. Vậy nên khi nghe thuyết kể về Vũ hầu, thì những công lao mà Phạm Ngũ Lão đã cống hiến vẫn còn khiến tác giả cảm thấy e thẹn.

Bài thơ “Tỏ lòng” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, từng lời thơ như một lời khẳng định hào hùng, đanh thép về ý chí chiến đấu và khát vọng cống hiến của tác giả đối với đời.

Xuyên suốt bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã bộc bạch những nỗi lo lắng và mong muốn được phục vụ đất nước, thật khiến cho người đọc cảm thấy khâm phục biết bao nhiêu.

🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng 🌻 Chia sẻ Cảm Nhận Về Bài Thơ Câu Cá Mùa Thu

Văn Mẫu Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng Mới Nhất

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng giỏi thời Trần, nhưng ông lại thích đọc sách ngâm thơ và được người đời ca ngợi là văn võ toàn tài. Bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật hoài) của ông đã khắc họa đã khắc họa được vẻ đẹp của con người có sức mạnh cũng như lý tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại:

Trước hết, hình ảnh người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông hiện lên thật đẹp. Khi giặc Nguyên tràn vào xâm lược, chúng đã gây ra bao nhiêu tội ác dã man, tàn bạo. Đối phó với kẻ thù như vậy cần phải có một bản lĩnh phi thường. Cụm từ “hoành sóc” gợi ra hình ảnh người tráng sĩ tay cầm ngọn giáo với tư thế chủ động, tự tin và không hề nhỏ bé.

Nhưng trong bản dịch thơ của Trần Trọng Kim lại dịch là “múa giáo” – cách dịch mang tính hoa mỹ, tuy phù hợp với nhịp thơ nhưng không nói lên được được sức mạnh nội lực bên trong. Kết hợp với đó, tầm vóc của người anh hùng còn được thể hiện qua không gian “giang sơn” – đất nước, thể hiện tầm vóc vĩ đại và thời gian “kháp kỉ thu” – mang tính ước lệ, ý chỉ khoảng thời gian kéo dài vô tận. Từ đó, tác giả khẳng định tầm vóc kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, lấn át cả không gian và thời gian của người anh hùng thời đại nhà Trần. Họ như những dũng tướng uy phong, lẫm liệt.

Không chỉ vậy, câu thơ tiếp theo, Phạm Ngũ Lão còn cho thấy tiềm lực mạnh mẽ của quân đội nhà Trần.“Tam quân” có nghĩa là ba quân (tiền quân, trung quân, hậu quân). Một quân đội tinh nhuệ, đông đảo về số lượng và mạnh mẽ về chất lượng. Quân đội đó cũng có một khí thế vững vàng. Hình ảnh so sánh rất độc đáo “tam quân” với “tỳ hổ”. Loài hổ được coi là chúa tể rừng xanh, có uy lực và sức mạnh. Hình ảnh so sánh đã nhấn mạnh sức mạnh dũng mãnh của quân đội nhà Trần đã trở thành nỗi khiếp đảm của quân thù. Không chỉ vậy, Phạm Ngũ Lão còn làm rõ sức mạnh ấy bằng hình ảnh “khí thôn ngưu”.

Tiếp theo, Phạm Ngũ Lão đã khéo léo mượn điển tích về nhân vật Vũ Hầu – một bề tôi trung thành nhất nhì trong lịch sử Trung Hoa nhằm nói chí tỏ lòng. Đó là sự hổ thẹn khi chưa trả được món nợ công danh với đời. Hai chữ “vương nợ” trong bản dịch thơ như khắc sâu thêm nỗi niềm da diết trong lòng tác giả. Ông luôn tự ý thức một cách sâu sắc về trách nhiệm của mình với quê hương, với đất nước. Từ đó, ta thấy được một nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão – một con người giàu lý tưởng, hoài bão với khát vọng cống hiến cho quê hương, đất nước.

Như vậy, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão quả thật là một bài thơ đẹp, giúp người đọc cảm nhận được tư thế hiên ngang, dũng mạnh của con người, quân đội thời Trần cũng như nhân cách cao đẹp của nhà thơ.

Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng Sáng Tạo

“Thơ như đôi cánh nâng tôi bay

Thơ là vũ khí trong trận đánh”

(Raxun- Gamzatốp)

Quả thật vậy, trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã có không ít những tác phẩm văn học từng đem lại biết bao sức mạnh và niềm tin cho nhiều thế hệ. Và một trong số những tác phẩm đó chính là bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Khúc tráng ca lẫm liệt ấy luôn khơi dậy trong mỗi tâm hồn Việt Nam niềm tin và tinh thần quyết thắng trước mọi thế lực xâm lăng. Sức mạnh lay động ấy đã ngời toả ngay từ vẻ đẹp người anh hùng thời Trần- kết tinh hùng tâm tráng chí của dân tộc Việt Nam.

Tác giả của “Tỏ lòng” – Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Nguyên, từng làm đến chức Điện Súy và được ca ngợi là văn võ toàn tài. Phạm Ngũ Lão chỉ để lại hai bài thơ (“Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”), nhưng tên tuổi của ông vẫn đứng cùng ngang hàng với những tác gia danh tiếng nhất của văn học đời Trần. Và ra đời trong bối cảnh cả dân tộc Đại Việt đang sục sôi khí thế “Sát Thát”, bài thơ “ Thuật hoài” chính là bức chân dung tự họa về vẻ đẹp của con người trong thời đại hào khí Đông A.

Trước hết, bài thơ “Thuật hoài” đã gợi ra hình ảnh người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp đầy hùng tâm, tráng chí. Tác giả đã khắc hoạ hình ảnh kỳ vĩ của người anh hùng cứu nước trên nền hào hùng của thời đại. Người anh hùng ấy thật mạnh mẽ, bền gan vững chí trong hành trình chiến đấu bảo vệ đất nước:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

(Múa giáo non sông trải mấy thu)”

Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang một tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao mạnh mẽ. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Cây trường giáo ấy dường như được đo bằng chiều ngang của non sông. Nghĩa là chủ nhân cầm cây giáo ấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. So với bản phiên âm, phần dịch thơ vẫn chưa diễn tả được hết sức mạnh, vẻ đẹp của tráng sĩ. Trong bản phiên âm, vẻ đẹp hiên ngang, lẫm liệt được thể hiện ở ngay tư thế“Hoành sóc”- cầm ngang ngọn giáo. Còn ở bản dịch thơ mới chỉ dịch là “Múa giáo”, là hành động gợi sự phô diễn, khoa trương… chưa thể hiện được hết sự kì vĩ, vững chắc. Sự kì vĩ ấy càng hiện rõ trong mối quan hệ với không gian và thời gian: không gian mở ra theo chiều rộng sông núi, thời gian được đo đếm bằng mùa, năm (kháp kỷ thu)chứ đâu phải chỉ trong chốc lát.

Hơn nữa, sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng người anh hùng càng được nâng lên qua khí thế hào hùng của thời đại:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)”

Hình ảnh “ba quân” là để nói về quân đội nhà Trần nhưng đồng thời còn là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây nghệ thuật so sánh đã vừa cụ thể hoá sức mạnh vật chất ba quân (mạnh như hổ báo) vừa hướng tới khái quát hoá sức mạnh tinh thần của đội quân mang hào khí Đông A (khí thế át sao trời). Ở câu thơ này, phần dịch thơ với cụm từ “nuốt trôi trâu” cũng chưa diễn tả được hết sức mạnh của quân đội như “khí thôn ngưu” trong bản phiên âm.

Hình ảnh ba quân với khí thế dũng mãnh này chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ “hoành sóc”. Và tự bản thân hình ảnh “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” đã khẳng định sự tất thắng của dân tộc trước kẻ thù xâm lăng.

Như vậy, hai câu thơ đầu đã thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ hữu cơ giữa người anh hùng và thời đại anh hùng, giữa một công dân anh hùng và một dân tộc anh hùng.

Không chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng, hình tượng người anh hùng còn đẹp bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đó là con người ôm ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng sống mà ông hướng tới là đánh giặc lập công để đền ơn vua, báo nợ nước. Lý tưởng cao đẹp ấy được thể hiện qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân:

“Công danh nam tử còn vướng nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Hai câu thơ đã thể hiện hùng tâm, tráng chí của người anh hùng thời Trần. Đó là lí tưởng sống của bao trang nam nhi thời phong kiến.

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”

(Nguyễn Công Trứ)

Hay ý chí hiên ngang của bậc lão anh hùng trong “Cảm hoài”:

“Quốc thù chưa trả già sao vội

Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy”

(Đặng Dung)

Câu thơ của Phạm Ngũ Lão đã nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Và ý thơ cũng ẩn chứa một lời thề trọn đời cống hiến, xả thân cho vương triều nhà Trần, cho non sông đất nước Đại Việt. Hùng tâm tráng chí của người anh hùng được thể hiện ở ngay nỗi “thẹn”- thẹn chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão được đem hết tài trí để cống hiến cho đất nước. Sau này trong văn chương, chúng ta cũng bắt gặp những cái “thẹn” rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

(Thu vịnh)

Với Nguyễn Khuyến đó là cái “thẹn” của một nhà nho – nghệ sĩ. Còn trong “Thuật hoài” là nỗi thẹn của bậc anh hùng – nghệ sĩ.

Và vẻ đẹp của người anh hùng “Sát Thát” ấy được Phạm Ngũ Lão khắc họa bằng bút pháp rất đặc sắc: ngôn ngữ tráng lệ, kĩ vĩ, gợi ra dáng vóc của những người anh hùng thần thoại, những người dũng sĩ trong sử thi…. Đặc biệt, là bài thơ tỏ chí, tỏ lòng nhưng không hề khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu tượng, hàm súc, giàu ý nghĩa.

Chính bởi bút pháp nghệ thuật đặc sắc như vậy, tác giả đã sáng tạo nên hình tượng người anh hùng thật giàu ý nghĩa. Bài thơ là bức chân dung tự hoạ của người dũng tướng thời Trần đầy hào hùng, trên cái nền đất nước tràn đầy sức mạnh quật cường. Hơn nữa, hình tượng thơ là kết tinh của tinh thần yêu nước và phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam. Bởi vậy cùng với “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Tụng giá hoàn kinh sư” (Trần Quang Khải), bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão sáng ngời hào khí Đông A.

Với vẻ đẹp rực sáng ấy, hình tượng người anh hùng đời Trần chính là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta trong cuộc sống hiện nay . Trước hết, vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt của người tráng sĩ luôn khơi dậy trong mỗi chúng ta ý thức rèn luyện, tu dưỡng về mặt thể chất. Hơn thế, ý chí được thể hiện qua nỗi “thẹn” của người anh hùng chính là kim chỉ nam định hướng lí tưởng sống cho mỗi người. Vậy nỗi ‘thẹn” của Phạm Ngũ Lão có thể hiểu như thế nào? Trước hết, đó có thể là vì lòng yêu nước vô cùng sâu sắc, ý thức trách nhiệm với giang sơn quá lớn lao khiến cho tác giả không hài lòng với công trạng của mình. Cũng có thể đó là vì lòng khiêm tốn rất chân thành mà thấy công trạng của mình không đáng kể. Hoặc vì lý tưởng sống của chàng thanh niên yêu nước này quá hào hùng với khát vọng vươn tới những đỉnh cao chiến công khiến ông không bằng lòng với thành tích của mình.

Thế nhưng, dù vì lý do gì đi nữa thì sự hổ thẹn của Phạm Ngũ Lão vẫn là sự hổ thẹn cao quý, hữu ích. Bởi nó là nguồn động lực để con người không ngừng vươn tới những đỉnh cao chiến công chứ không ngủ quên trong vinh quang hiện tại. Trong cuộc sống hiện nay, mỗi người cần sống có lý tưởng, hoài bão có mục đích cao đẹp, bởi : “Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dù nó vẫn thường gây nên những cơn giông tố” (Safontaine) và “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường, không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định mà không có phương hướng thì không có cuộc sống” (Leptônxtôi). Chính vì vậy, mỗi người hãy hướng tới lý tưởng sống cao đẹp ngày nay là cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Hãy luôn rèn luyện, phấn đấu làm việc tận tụy và cống hiến hết mình.

Là thế hệ mùa xuân của đất nước, tuổi trẻ chúng ta càng phải xác định được lý tưởng sống của mình: “Sống là cho chết cũng là cho” (Tố Hữu). Tuổi trẻ cần cảnh giác với tâm lý, hoặc là tự thoả mãn với chút công trạng của mình hoặc đòi hỏi đất nước phải “trả công” cho mình. Hãy xác định đóng góp công sức để xây dựng đất nước là nghĩa vụ thiêng liêng và đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ Quốc” . Đặc biệt giờ đây khi đất nước đang còn nhiều khó khăn, đang phải “neo mình đầu sóng cả”, mỗi người hãy nhận thức được đúng đắn vai trò của mình. Mũi khoan Hải Dương 981 xoáy vào thềm lục địa “Đất nước” nhói đau từ biển lên rừng, buốt tim 90 triệu người dân Việt. Và bởi nước “Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy sẽ không bao giờ thay đổi”. (Hồ Chí Minh). Chính vì vậy, toàn thể dân tộc Việt Nam, nhất là tuổi trẻ trên dưới một lòng, nguyện đem tất cả tính mạng, của cải để giữ vững nền tự do, độc lập đó” (Hồ Chí Minh).

Bên cạnh đó, cũng cần phải phê phán những con người có lối sống vị kỷ, không có lý tưởng, mục đích sống. Bởi như vậy là họ đang tự huỷ hoại chính bản thân, cuộc sống của họ “đang rỉ đi, đang mòn ra, đang nổi váng”.

Như vậy mỗi người chúng ta hãy luôn sống có lý tưởng, khát vọng, nhân cách cao đẹp. Và hình tượng người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp kỳ vĩ, lẫm liệt, với lý tưởng sống cống hiến sẽ luôn cháy sáng trong mỗi tâm hồn Việt Nam. Đó cũng là hành trang quý giá nâng bước cho mỗi chúng ta trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ Quốc. Tiếp bước truyền thống của cha ông, giờ đây khi “Tổ quốc đang bão giông từ biển”, nêu cao tư tưởng nhân nghĩa chúng ta nguyện giữ vẹn nguyên hình hài tổ quốc bằng tinh thần hòa hiếu nhất. Song , vì sự toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cũng sẵn sàng chấp nhận những mất mát, những hy sinh một khi không còn con đường nào khác. Và khắc ghi lời dặn của cha ông, chúng ta nguyện đưa con tàu tổ quốc vượt qua mọi phong ba bão tố:

“Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”.

(Nguyễn Việt Chiến)

Bài Văn Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng tác giả Phạm Ngũ Lão chọn lọc hay nhất:

Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là “Hào khí Đông A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Toản, “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu,… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Hoành sóc giang san kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoành sóc giang san kháp kỉ thu” là một câu thơ có hình tượng kỳ vỹ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc không gian (giang san) vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỉ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo “tỳ hổ” quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mơ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoàng tráng, vũ trụ: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “sát thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

“Thuyền bè muôn đội

Tinh kỳ phấp phới

Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…”

(Bạch Đằng giang phú)

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công đê đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc. Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”.

“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tông).

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vu anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông A”.

Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng Để Làm Nổi Bật Hào Khí Đông A tác phẩm nỗi tiếng của tác giả Phạm Ngũ Lão

Triều đại nhà Trần (1126-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta.

Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào lịch sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.

Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử gia ca ngợi là “Hào khí Đông A”.

Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng – thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Toản, “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại vương”.

Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự họa của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo “tỳ hổ” quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi.

“Khí thôn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mơ sao Ngưu trên bầu trời.

Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoàng tráng, vũ trụ: “Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu”.

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công đê đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng! Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời loạn lạc, giặc giã:

“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, được tinh thần quả cảm và chiến công.

Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.

Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu.

“Thuật hoài” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng, mạnh mẽ. Ngôn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kì vỹ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng, trang nghiêm, mang phong vu anh hùng ca. Nó mãi là khúc tráng ca của các anh hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đông A”.

🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng 🌻 Tham khảo Thơ Tú Xương Hay

Tham khảo những bài Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng trên Facebook được chúng tôi tổng hợp

Trong kho tàng văn học thời Trần, “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão là một bài thơ tiêu biểu thể hiện rõ tinh thần của thời đại nhà Trần với “Hào khí Đông A”.

Được sáng tác theo khuynh hướng yêu nước – sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc, tác phẩm đã khắc họa thành công bức chân dung người anh hùng mang tầm vóc vũ trụ với vẻ đẹp lớn lao, kì vĩ toát lên từ lí tưởng đến tầm vóc, tư thế và hành động.

Trước hết, bài thơ đã khắc họa tư thế hiên ngang và tầm vóc kì vĩ của người anh hùng Phạm Ngũ Lão và vẻ đẹp của thời đại Đông A:

Dịch thơ:

Với ý nghĩa “cầm ngang ngọn giáo”, từ ngữ “hoành sóc” đã tái hiện thành công hình ảnh người anh hùng trấn giữ đất nước trong tư thế hiên ngang, mang tầm vóc vũ trụ và hào khí dường như bao trùm đất trời.

Trong bản dịch của tác phẩm “Chinh phụ ngâm” cũng miêu tả hình ảnh người chinh phu với hành động “Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo”.

Với hào khí đó, ắt hẳn người anh hùng đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của thời đại nói riêng và của dân tộc nói chung: “Ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu”.

Câu thơ đã tái hiện hình ảnh cụ thể của quân đội nhà Trần, đồng thời khái quát sức mạnh của dân tộc.

Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi nghệ thuật so sánh “Tam quân tì hổ” (Ba quân dũng mãnh như hổ báo) với khí thế “nuốt trôi trâu”, diễn đạt thành công tinh thần quyết chiến quyết thắng của “Hào khí Đông A”.

Không chỉ khắc họa vẻ đẹp về tầm vóc, tư thế, hành động; bài thơ còn vẽ nên bức chân dung về ý chí của người anh hùng:

“Công danh” vốn là một phạm trù quen thuộc khi người anh hùng bày tỏ ý chí của mình mang màu sắc của tinh thần, tư tưởng Nho giáo với ý nghĩa: để lại sự nghiệp và để lại tiếng thơm.

Xuyên suốt thời đại phong kiến, đây là quan niệm lí tưởng của các bậc anh hùng. Tác giả Nguyễn Công Trứ cũng đã từng dõng dạc tuyên bố rằng:

Như vậy, chúng ta có thể thấy được lí tưởng mà tác giả hướng đến hoàn toàn mang ý nghĩa tích cực, thể hiện rõ ý chí quyết tâm đối với sự nghiệp cứu nước, cứu đời.

Mặc dù là một vị tướng có nhiều công lao to lớn đối với công cuộc đánh đuổi ngoại xâm và bảo vệ đất nước nhưng Phạm Ngũ Lão vẫn cho rằng mình vẫn còn “vương nợ” công danh.

Bởi vậy, ông mang trong mình nỗi thẹn khi “tai nghe chuyện Vũ hầu”. Đó là nỗi “thẹn” khi chưa có tài thao lược lớn như Gia Cát Lượng. Qua đó, chúng ta có thể thấy được nhân cách cao đẹp của tác giả.

Như vậy, bài thơ “Tỏ lòng” đã thể hiện rõ bức chân dung về người anh hùng Phạm Ngũ Lão với tầm vóc, tư thế lớn lao mang tầm vóc vũ trụ cùng ý chí của tác giả.

Đồng thời, bài thơ còn thể hiện rõ khí thế ba quân và hào khí cũng như sự lớn mạnh của thời đại nhà Trần.

🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng 🌻 Tham khảo Cảm Nhận Về Bài Thơ Đồng Chí

Đừng bỏ lỡ Đoạn Văn Cảm Nhận Về Bài Thơ Tỏ Lòng hấp dẫn và được mọi người quan tâm

Phạm Ngũ Lão được biết đến là võ tướng có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Bên cạnh đó ông còn rất ham đọc sách, làm thơ và được xem là người văn võ toàn tài.

Tác phẩm của ông hiện chỉ còn hai bài thơ là “Tỏ lòng” (Thuật hoài) và “Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”.

Đặc biệt, “Tỏ lòng” đã thể hiện vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng hiên ngang với lí tưởng và nhân cách lớn lao, đồng thời phản ánh hào khí của thời đại Đông A với sức mạnh và khí thế hào hùng.

Bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật hoài) được làm bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Hai câu thơ đầu của bài thơ đã ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội thời Trần qua việc khắc họa hình tượng người anh hùng hiên ngang lẫm liệt:

Với giọng điệu khỏe khoắn, bức phác họa người tráng sĩ hiện lên với tư thế hiên ngang, kiên cường trong bối cảnh không gian bao la rộng lớn.

Đó là tư thế “hoành sóc” – cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ biên cương, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. Người tráng sĩ ấy được đặt trong bối cảnh “giang sơn” rộng lớn, thời gian “kháp kỉ thu” muôn đời.

Không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ ấy cùng thời gian trải dài như bất tử hóa, thiêng liêng hóa tư thế hào hùng lẫm liệt của người anh hùng.

Bản dịch thơ dù đã tạo âm hưởng uyển chuyển song chữ “múa giáo” không khắc họa đầy đủ tư thế vững chãi, hiên ngang của tướng sĩ.

Câu thơ đầu tiên đã tái hiện vẻ đẹp người tráng sĩ trong tư thế sẵn sàng, oai phong trong không gian bao la, sẵn sàng lập nên những chiến công oanh liệt cho Tổ quốc.

Câu thơ có sự kết hợp giữa những hình ảnh khách quan và những cảm nhận chủ quan của Phạm Ngũ Lão, góp phần miêu tả vẻ đẹp và hào khí dũng mãnh của quân đội nhà Trần.

Kết hợp cả hai câu thơ đầu, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hùng dũng của người tráng sĩ cũng tầm vóc mạnh mẽ của quân đội thời đại Đông A, qua đó gián tiếp thấy được niềm tự hào của tác giả.

Là một thành viên ưu tú của quân đội hào hùng ấy, Phạm Ngũ Lão ý thức rất rõ về trách nhiệm của bản thân, bởi vậy ông đã bày tỏ nỗi lòng mình:

Xưa nay viết về chí làm trai, người đọc đã bắt gặp những vần thơ rất đỗi quen thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông.

Cũng đồng điệu tâm hồn với bao kẻ sĩ đương thời, Phạm Ngũ Lão vô cùng đề cao lí tưởng trung quân, ái quốc.

Bởi vậy, ông cho rằng đã là nam nhi thì phải trả nợ công danh, mà nợ công danh ở đây chính là làm điều có công với đất nước: “Nam nhi vị liễu công danh trái”.

Khát vọng mong muốn lập nhiều công danh hơn nữa được diễn tả hết sức khiêm nhường khi đặt bản thân mình bên cạnh mưu thần Gia Cát Lượng. Âm hưởng câu thơ trầm lắng thể hiện khát vọng lập công và chí làm trai hết sức tiến bộ của Phạm Ngũ Lão.

Với hệ thống ngôn từ hàm súc, cô đọng cùng những hình ảnh giàu sức biểu cảm, “Tỏ lòng” đã khắc họa vẻ đẹp của con người thời nhà Trần có sức mạnh, lí tưởng, nhân cách cao cả, đồng thời phản ánh khí thế hào hùng của thời đại.

Âm hưởng mạnh mẽ ấy để lại dư ba trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống không bao giờ quên đề ra lí tưởng sống cao cả để sống đẹp, sống có ích hơn.

🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng 🌻 Tham khảo Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn 

Từ ngàn xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước mỗi khi đất nước cần. Lòng yêu nước được thể hiện qua nhiều lĩnh vực nhưng có lẽ nổi bật nhất vẫn là ở lĩnh vực văn học.

Trong các bài thơ của ông, có một tác phẩm rất đặc biệt “Tỏ lòng” đây chính là tác phẩm đã làm toát lên rất rõ về vẻ đẹp, khí thế của con người nhà Trần. Phạm Ngũ Lão là danh tướng thời Trần, có công rất lớn trong công cuộc chống Nguyên – Mông.

“Tỏ lòng” được ông sáng tác khi cuộc chiến lần thứ hai Nguyên – Mông đang đến rất gần, nhằm khơi dậy sức mạnh toàn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên biên ải Bắc trấn giữ nước.

Hào khí dân tộc thể hiện ở sự hòa quyện giữa hình ảnh người anh hùng với hình ảnh “Ba quân” đã tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững đang hiện ra.

Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi, “Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi ròng rã đã mấy năm rồi mà không biết mệt mỏi.

Con người đó được đặt trong một không gian kì vĩ: núi sông, đất nước khiến con người trở nên vĩ đại sánh ngang với tầm vóc vũ trụ.

Hình ảnh còn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường.

Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy nhiên, khi nói đến “ba quân” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi biết bao.

Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững mạnh và oai hùng. Nhờ đó, tác giả đã bày tỏ niềm tự hào về sự trưởng thành, và lớn mạnh của bậc quân đội.

Không chỉ thế, câu thơ còn sử dụng thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” – khí thế quân đội mạnh mẽ lấn át cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu.

Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự kết hợp giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung.

Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người anh hùng đang được thể hiện rõ qua hai cặp từ “nam nhi và công danh”.

Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai.

Một danh tướng có nỗi trăn trở, canh cánh trong lòng là chưa trả xong nợ công danh mặc dù con người ấy đã lập lên bao nhiêu chiến công rồi

Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vua giúp nước, trong không khí sục sôi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng chiến đấu giành lại hòa bình cho đất nước.

Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người anh hùng, điều đáng quý bên cạnh Trí là còn có cái tâm.

“Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài năng, một nhân cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng vẫn thấy thẹn.

Qua nỗi thẹn ấy, người đọc nhận ra thái độ khiêm nhường, một ý nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung.

Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng.

Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông A.

Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về nhân cách của con người phải được giữ gìn.

🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng 🌻 Chia sẻ trọn bộ Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ Hay

Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy hào sảng, hùng tráng.

Bởi vậy chăng mà cứ mỗi lần từng tiếng thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta luôn là hình ảnh người tráng sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.

Là một vị tướng tài ba từng gắn bó sâu sắc với triều đại nhà Trần, Phạm Ngũ Lão hiểu rõ hơn ai hết tấm lòng thiết tha với non sông và khao khát giữ vững độc lập chủ quyền nước nhà của tướng quân và nhân dân.

Trong hoàn cảnh cả dân tộc đang dốc sức thực hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, cần có một liều thuốc tinh thần tiếp thêm sức mạnh để quân dân từng ngày cố gắng hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ đất nước; “Thuật hoài” ra đời cũng vì lẽ đó.

Đặt trong một hoàn cảnh đặc biệt, được viết dưới ngòi bút của con người có tầm vóc lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại, song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận muôn đời.

Hai câu thơ đầu là những nét phác họa đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đông A:

Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã dựng lên hình ảnh người tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông.

Chỉ qua một hành động “hoành sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy oai hùng và kiên cường, ngay thẳng, vững vàng.

Sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa không gian rộng lớn của “giang sơn” và dòng thời gian dài trôi chảy “kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi luyện mỗi ngày.

Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại.

Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó không chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, mà là tầm vóc hào sảng của biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.

Chưa một thời đại nào trong lịch sử dân tộc, tầm vóc của con người lại trở nên lớn lao đến vậy, với khí thế hùng tráng: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.

Trong cách nói cường điệu, ta thấy được tình cảm tự hào của nhà thơ khi đã nâng tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ bao la.

Đó là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một đất nước, một thời đại hùng mạnh, đầy phấn chấn, tự tin, luôn khao khát vươn lên, giữ vững chủ quyền cho nước nhà.

Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ ấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần.

Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vị anh hùng thời đại, mà là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc anh hùng.

Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh, nhà thơ giúp người đọc đi sâu hơn để khám phá tâm thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong những tráng sĩ:

Đối với những người tráng sĩ “bình Nguyên” thuở ấy, trong hoàn cảnh đất nước đang bị lăm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bang, “nợ công danh” mà họ phải trả, đó là làm sao để bảo vệ trọn vẹn đất nước, để có thể đem lại yên ấm cho muôn dân.

Nói khác đi, hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ chính là niềm yêu nước thiết tha sâu nặng, là tiếng nói khát khao đánh giặc cứu lấy non sông.

Điều đặc biệt là trong từng câu chữ của “Tỏ lòng”, tinh thần bất khuất ấy không được nêu lên một cách giáo điều, khô cứng, mà nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa.

Với “Tỏ lòng”, đây là lời tâm sự bày tỏ tâm tư, ý chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần mà tâm can đều dành trọn cho dân tộc.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, dũng mãnh.

Cùng với “Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” – Trương Hán Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dòng trôi chảy của thời gian…

🌻Ngoài Cảm Nhận Bài Thơ Tỏ Lòng 🌻 Tham khảo Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Chuẩn Nhất

Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh ❤️️15 Đoạn Văn Hay Nhất

Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh ❤️️ 15 Đoạn Văn Hay Nhất ✅ Là Mùa Đẹp Nhất Trong Năm, Là Mùa Của Vạn Vật Sinh Sôi Nảy Nở, Là Mùa Của Những Yêu Thương. 

Tham khảo Cách Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh hiệu quả dựa vào các phần được chúng tôi gợi ý sau đây.

Phần mở đầu: Giới thiệu chung về thời tiết của Việt Nam hoặc của mùa bạn muốn viết

Miêu tả chung về thời tiết: ở đâu, khi nào, có dễ chịu không,

Bạn có thích thời tiết như thế không?

Phần 2: Nội dung chính: Miêu tả về thời tiết nơi bạn muốn viết

Sự thay đổi thời tiết trong ngày/trong năm/

Thời tiết ảnh hưởng tới người dân ở đó như thế nào?

Hoạt động của mọi người sống ở đó

Cảm nhận của bạn về thời tiết

Phần kết: Tóm tắt lại ý chính và nêu cảm nhận chung

Gợi Ý 💦 Viết Một Đoạn Văn Ngắn Gọn 🌼 21 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Spring has long been called the season of the festivals. Especially in some Asia countries including Vietnam, at this time there are many big and small festivals taken place all over the country. First of all, Tet is the most important event of our country. It just for a week but is well-received and well prepared.

Everyone is looking forward to Tet, they go shopping for the New Year from December twenty one, prepare some items such as bonsai, candy, clothes. This is a chance for them to remember their ancestors, spend time together, give each other best wishes, … Besides Tet, there are many other festivals in the spring.

Many people tend go to pagodas, temples, find the ancient land to pray for the family healthy and peaceful. Some families book themselves a short vacation, go to the famous sightseeing tours, recharge energy for a new year. Maybe spring makes people excited and happy because it has so many festivals. Thus, when talk about spring, people often think of joy, excitement.

Tạm dịch

Mùa xuân vốn được coi là mùa của lễ hội. Đặc biệt ở một số nước châu Á bao gồm cả Việt Nam, vào thời gian này có rất nhiều lễ hội lớn nhỏ diễn ra trên cả nước. Đầu tiên phải kể đến Tết, đây là dịp lễ quan trọng nhất của nước ta. Nó kéo dài tầm một tuần nhưng được mọi người rất đón chờ và chuẩn bị kĩ càng.

Nhà nhà người người đều mong chờ tết, họ rục rịch kéo nhau đi sắm tết từ ngày hai mốt tháng chạp, chuẩn bị các đồ như cây cảnh, bánh kẹo, quần áo. Đây còn là dịp để họ nhớ về cội nguồn, dành thời gian bên nhau, chúc tụng nhau những điều tốt đẹp nhất. Bên cạnh Tết còn rất nhiều lễ hội khác mùa xuân. Rất nhiều người rủ nhau đi chùa, đền, tìm về đất tổ để cầu mong cho gia đình luôn bình an mạnh khỏe.

Một số gia đình lại đặt cho mình một chuyến du lịch ngắn ngày, đi đến những tour du lịch nổi tiếng để thăm quan ngắm cảnh, nạp năng lượng cho một năm mới. Mùa xuân đến làm lòng người náo nức phấn khởi cũng bởi chăng do nó có rất nhiều lễ hội. Vì thế mà nhắc đến mùa xuân, người ta thường nghĩ đến niềm vui, sự phấn khởi.

Tìm hiểu hướng dẫn 🌹 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào

Viết Một Đoạn Văn Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh, cùng đón đọc mẫu văn hay sau đây.

Spring is a joyful season, and it is the beginning of a whole new year. Most countries start their new years in spring, so spring can also be considered as a season of festivals. For example, we have our traditional new year event which is usually located on February – Tet holiday. This is the biggest occasion of the year, and people are all happy about it.

Besides those main flowers, people love to have many other colorful one to be put on the tables and altars. Spring is also a season for us to enjoy some of the best dishes that we rarely have during the year, and people seem to be more lovable and easier than other times. Spring is a season of happiness, and it can be considered as the favorite one for most people.

Tạm dịch

Mùa xuân là một mùa vui vẻ, và đây là điểm bắt đầu một năm hoàn toàn mới. Hầu hết các quốc gia bắt đầu năm mới vào mùa xuân, vì thế mùa xuân còn có thể xem là mùa của lễ hội. Ví dụ như chúng tôi có một sự kiện năm mới truyền thống được đặt vào tháng hai – ngày Tết. Đây là dịp lớn nhất trong năm, và tất cả mọi người đều vui vẻ về ngày đó.

Những dịp năm mới của các quốc gia khác cũng bắt đầu vào khoảng thời gian này, vậy nên mọi người có thể chia sẻ chung niềm phấn khởi. Thời tiết thì ôn hòa và tươi mới, và những bông hoa bắt đầu nở rộ, những chiếc lá trông xanh hơn bao giờ hết, và điều tuyệt vời nhất là chúng ta có thể có một kì nghỉ ngắn khỏi công việc và trường học để tận hưởng những ngày này. Mọi người dừng lại các hoạt động thường nhật để ra khỏi nhà và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mùa xuân. Ở miền Nam Việt Nam, màu vàng của hoa mai xuất hiện khắp mọi nơi từ sân nhà cho tới những cung đường chính.

Những loài hoa khác mà mọi người thích mua vào những ngày này như hoa cúc và hoa vạn thọ cũng có màu vàng, vậy nên có thể nói đây là màu chủ đạo chính của miền Nam vào những ngày xuân. Mặt khác, màu hồng của hoa đào thống trị mùa này ở miền Bắc Việt Nam. Mọi người trồng chúng, mua bán và mang theo chúng khắp nơi trên mọi nẻo đường.

Bên cạnh những loài hoa chính này, mọi người thích mua những loài hoa đủ màu khác để đặt lên bàn và bàn thờ. Mùa xuân cũng là mùa để chúng ta thưởng thức những món ăn ngon nhất mà chúng ta ít khi nào ăn trong năm, và mọi người có vẻ như yêu mến nhau hơn và dễ dãi hơn những lúc khác. Mùa xuân là mùa của hạnh phúc, và nó có thể được xem là mùa yêu thích nhất của hầu hết mọi người.

Xem Nhiều Hơn 💦 Viết Đoạn Văn 200 Chữ 🌼 Cách Viết & 24 Bài Văn Hay Nhất

Tham khảo mẫu văn hay Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh Ấn Tượng được chúng tôi chia sẻ sau đây.

My favorite time of the year is spring, and I am sure most people have the same idea as mine. Spring is like the biggest sister of the season family, and it is also the prettiest. Spring has its own way to make people feel attached, and it makes people hope for the best things that will come in a new year.

The air is fresh and cool, and happiness seems to be hanging in the middle of the sky. The wind is still cold a little bit at night and early in the morning, but the sun begins to shine and warm up everything.

The heavy rains from winter are gone, and sometimes there is a drizzling rain instead. It does not annoy people, but it gives a comfortable and refreshing feeling when the tiny drops of water lie on our faces. The sky is higher and clearer than ever with the thin layers of soft white clouds, and every street, every corner seems to be brightened up by countless streams of light.

The sweet smell of flowers are flowing everywhere, and it is easy for us to witness a whole new species of beautiful plant that we did not pay attention to before.

People take a short break to enjoy this wonderful season, so the streets seem to be busier and more crowded. At this time everyone feels happier and more comfortable, so the daily harsh life can be eased a little bit. I love wandering around on these days to have a complete feeling of spring and admire all the beauty of nature. A new year is coming, and there is nothing better than starting a whole new period with a sweet and lovable season like this.

Tạm dịch

Khoảng thời gian yêu thích nhất của tôi trong năm là mùa xuân, và tôi chắc hầu hết mọi người cũng có cùng ý kiến với tôi. Mùa xuân giống như người chị cả của gia đình bốn mùa, và đồng thời cũng là người xinh đẹp nhất. Mùa xuân có một cách riêng để khiến mọi người cảm thấy lưu luyến, và nó khiến chúng ta hy vọng vào những điều tốt đẹp sắp sửa đến trong năm.

Không khí thì trong lành và mát mẻ, và niềm vui như được treo lơ lửng giữa không trung. Những cơn gió vẫn còn lạnh một chút vào lúc đêm hoặc sáng sớm, nhưng mặt trời đã bắt đầu tỏa sáng và sưởi ấm mọi vật.

Những cơn mưa nặng hạt từ mùa đông đã biến mất, và thay vào đó đôi khi chỉ còn lại những cơn mưa phùn. Nó không làm cho mọi người khó chịu, mà nó cho chúng ta một cảm giác thoải mái và tươi mới khi những hạt nước mưa bé tí đậu lên mặt. Bầu trời cao hơn và trong trẻo hơn bao giờ hết với những tầng mây trắng mềm và mỏng; và mỗi con đường, mỗi ngóc ngách dường như đều được bừng sáng bởi vô số những tia sáng.

Mùi hương ngọt ngào của những bông hoa chảy ở khắp mọi nơi, và thật dễ dàng cho chúng ta để bắt gặp một loài thực vật xinh đẹp hoàn toàn mới mà trước đó chúng ta đã không để ý.

Mọi người có một khoảng thời gian nghỉ để tận hưởng mùa tuyệt vời này, và những con đường có vẻ đông đúc và nhộn nhịp hơn. Vào khoảng thời gian này mọi người cảm thấy vui vẻ và thoải mái hơn, vậy nên cuộc sống khó khăn thường ngày cũng được giãn ra một chút.

Tôi rất thích đi lang thang xung quanh vào những ngày này để có được cảm giác đầy đủ về mùa xuân và chiêm ngưỡng toàn bộ vẻ đẹp của thiên nhiên. Một năm mới đang đến, và không có gì tốt hơn việc bắt đầu một thời kỳ mới với một mùa ngọt ngào và đáng yêu như thế này.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Bài mẫu Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh Đặc Sắc giúp các em có thể trau dồi thêm vốn từ vựng của mình thêm đa dạng hơn.

Spring is the beginning of a year. Around this time, the climate is still cold and humid. There are still some small drizzles outside but they seem not be able to stop the hundreds of colorful flowers blooming. Peach blossoms, apricot blossoms and lime trees are the most favorite plants for the Lunar New Year. Apricot blossom is yellow, peach blossom is pink, these color brighten up the sky.

Children are especially happy to wear new clothes and receive red envelopes, are taken to visit the relatives. For me, the spring is so special, it carries so much love and happiness.

Tạm dịch

Mùa xuân là mùa khởi đầu của một năm. Vào khoảng thời gian này, khí hậu vẫn còn se se lạnh, ẩm ướt. Ngoài trời vẫn còn một số cơn mưa phùn nhỏ nhưng dường như chúng không thể ngăn cản được trăm hoa đua nở rực rỡ sắc màu. Hoa đào, hoa mai và cây quất là những loại cây cảnh được ưa chuộng nhất vào dịp Tết. Hoa mai màu vàng, hoa đào màu hồng, nó làm bừng sáng cả một mảng trời.

Xuân đến đồng nghĩa là tết về. Vào thời điểm này, lòng ai cũng rộn ràng. Những con đường chật kín xe cộ đi lại, ai ai cũng náo nức đi mua sắm đồ đạc cho năm mới, nào là cây cảnh, quần áo, thức ăn. Theo truyền thống, nhà nào cũng treo câu đối đỏ trước cửa nhà, trồng cây nêu, gói bánh chưng xanh ăn với dưa hành. Đây là một nét rất đặc trưng mà chỉ Việt Nam mới có, hấp dẫn các khách du lịch phương xa.

Đặc biệt những đứa trẻ thì vui mừng được mặc quần áo mới và nhận những phong bao lì xì đỏ thắm, được đưa đi thăm họ hàng gần xa. Đối với tôi mùa xuân thật đặc biệt, nó chất chở bao yêu thương và hạnh phúc.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Cách Viết Đoạn Văn Tiếng Anh Đúng Ngữ Pháp 🍀 10 Mẫu Hay

Lush green shoots in the trees signal spring has come. This is my favorite season. Spring is like a young woman, gentle and gentle. Winter weather is very pleasant. This season is usually sunny. Light rays of sunlight perch on the tree canopy. Sunny but not hot. The first-spring rains were just fleeting like the angry girl, rushing to come but also hastily.

Spring is the season that makes me feel extremely comfortable. The clear blue sky along with the fluffy white clouds made me feel so good. In spring, we do not have to suffer from the freezing cold of winter, nor do we need to worry about the scorching summer sun.

Everything is so gentle. The spring air is neither too dry nor too humid. If possible I want to live forever this spring. But I know this is not possible. Spring has passed, leaving in my heart are regrets and memories and memories of spring rains.

Tạm dịch

Những mầm non xanh mơn mởn trên những tán cây báo hiệu mùa xuân đã về. Đây là mùa mà tôi yêu thích nhất. Mùa xuân như một người thiếu nữ, dịu dàng và hiền hòa. Thời tiết mùa đông rất dễ chịu. Mùa này thường có nhiều nắng. Những tia nắng nhẹ nhàng đậu trên tán cây. Tuy nắng nhưng không nóng. Những cơn mưa đầu xuân chỉ thoáng qua như người thiếu nữ giận hờn, vội đến mà cũng vội đi.

Mùa xuân là mùa khiến tôi cảm thấy vô cùng thoải mái. Bầu trời trong xanh cùng với những đám mây trắng bồng bềnh giúp tôi cảm thấy thật dễ chịu. Mùa xuân, chúng ta không phải chịu cái lạnh buốt của mùa đông, cũng không cần lo về cái nắng gắt của mùa hè.

Mọi thứ thật hiền hòa. Không khí mùa xuân không quá khô cũng không quá ẩm. Nếu có thể tôi muốn sống mãi trong mùa xuân này. Nhưng tôi biết điều này là không thể. Mùa xuân qua đi để lại trong lòng tôi là những tiếc nuối và hồi ức, hồi ức về những cơn mưa xuân.

Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🌼 Card Viettel Mobifone

Bài mẫu Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh Chọn Lọc từ chúng tôi và giới thiệu đến các bạn đọc sau đây.

Spring is a time for doing things. It seems everyone is full of energy. The days become warmer so everyone spends more time outside. Winter is finishing, so the countryside becomes greener. I love watching the new flowers in my garden in spring. I watch the tulips grow and then I know winter is over. I wonder what it’s like to live in countries that don’t have four seasons. They miss out on what it’s like to welcome spring and see everything come alive.

Spring has to be the best season. It definitely makes you feel very positive about life. It’s a good time to clean your house from top to bottom. We call this spring cleaning. Spring also means the weather gets warmer and you can do more things outside.

Tạm dịch

Mùa xuân là thời gian để làm mọi thứ. Mọi người dường như có đủ năng lượng. Ngày trở nên ấm áp vì vậy mọi người dành nhiều thời gian ở bên ngoài. Mùa đông thì đang hoàn thiện, vì vậy vùng nông thôn trở nên xanh hơn. Tôi thích xem những bông hoa mới nở vào mùa xuân trong vườn. Tôi xem hoa tulip lớn và sau đó tôi biết mùa đông đã qua. Tôi tự hỏi điều mà yêu thích cuộc sống đó có phải là bốn mùa không? Họ bỏ lỡ những gì yêu thích để chào đón mùa xuân và nhìn mọi thứ còn sống.

Mùa xuân đã trở thành mùa đẹp nhất. Nó chắc chắn làm cho bạn cảm thấy yêu thích về cuộc sống. Đây là thời gian để cho bạn don nhà từ trên xuống dưới. Chúng ta gọi đây là mùa xuân đang sang. Mùa xuân cũng có nghĩa là thời tiết trở nên ấm áp và bạn có thể làm mọi thứ bên ngoài.

Gợi Ý 🍀 Viết Đoạn Văn Về Mùa Xuân ❤️️ 18 Bài Mẫu Hay Nhất

To me, spring is a joyful season, and it is the beginning of a whole new year. The weather in spring is mild and fresh, when flowers are starting to bloom, and the leaves are greener than ever. In the North, it will be a little bit cool with drizzles, that is the special feature here.

Additionally, in spring, we have Tet holiday our traditional new year event which is usually located in February. This is the biggest occasion of the year with many festivals, and people are all happy about it. People stop their regular activities to get out of their houses and admire the beauty of spring. Specially, yellow apricot blossoms and pink peach blossoms really brighten up the sky. I love wandering around on these days. The spring is so special, it carries so much love and happiness.

Tạm dịch

Đối với tôi, mùa xuân là một mùa vui tươi, và nó là khởi đầu của một năm mới. Tiết trời vào xuân ôn hòa, trong lành, khi hoa bắt đầu nở, lá xanh tươi hơn bao giờ hết. Ở miền Bắc se se lạnh một chút kèm theo những cơn mưa phùn, đó chính là nét riêng ở đây.

Ngoài ra, vào mùa xuân, chúng tôi có kỳ nghỉ Tết sự kiện năm mới truyền thống của chúng tôi thường diễn ra vào tháng Hai. Đây là dịp lễ lớn nhất trong năm với nhiều lễ hội và mọi người đều rất vui vì điều đó. Mọi người dừng các hoạt động thường ngày để ra khỏi nhà và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của mùa xuân.

Đặc biệt, hoa mai vàng và hoa đào hồng thắm làm bừng sáng cả một góc trời. Tôi thích đi dạo lang thang trong những ngày này. Mùa xuân thật đặc biệt, nó mang theo bao yêu thương và hạnh phúc.

Đón Đọc Bài 🍀 Cảm Nhận Về Mùa Xuân ❤️️ 15 Bài Văn Cảm Nghĩ Hay Nhất

Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh Luyện Viết giúp các em có thể cải thiện kĩ năng viết của mình thêm một bước tiến mới.

I love summer with bunches of red phoenix flowers. I love autumn with falling yellow leaves. I love winter with the cold that cuts through the flesh. But the most loving thing is spring with the endless vitality of nature.

It’s wonderful when spring is the beginning of the new year. It’s easy to see when spring knocks on the door. That’s when the flowers in my garden begin to bloom. The newly planted mother vegetable bed also began to sprout. On the bare branches, the first leaves had begun to sprout. A new life is being revived. The air is also much warmer now, not as cold as before. The weather is cooler and more pleasant than ever.

In the high and clear sky, flocks of slave swallows flew back with their chirping songs. Peach and apricot blossoms bloom together, adorning the earth and sky more beautiful. They make the spring air fresh and sweet. Everyone wants to go out to enjoy the wonderful atmosphere. Looking at the scenery of heaven and earth in the spring days, I feel more and more in love with my beautiful homeland.

Tạm dịch

Em yêu mùa hè với những chùm hoa phượng vĩ nở đỏ rực. Em yêu mùa thu với những chiếc lá vàng rơi. Em yêu mùa đông với cái lạnh cắt da cắt thịt. Nhưng yêu hơn cả là mùa xuân với sức sống bất tận của thiên nhiên.

Thật tuyệt vời khi mùa xuân là mùa khởi đầu cho năm mới. Thật dễ để nhận biết thời điểm mà mùa xuân gõ cửa. Đó là khi cây hoa trong vườn nhà em bắt đầu đơm bông. Luống rau mẹ mới gieo hạt cũng bắt đầu nảy mầm. Trên những cành cây trơ trụi lá đã bắt đầu châm chồi những búp non đầu tiên. Một sự sống mới đang được hồi sinh. Không khí lúc này cũng trở nên ấm áp hơn rất nhiều chứ không còn giá lạnh như trước nữa. Thời tiết trở nên mát mẻ và dễ chịu hơn bao giờ hết.

Trên bầu trời cao và trong xanh những đàn chim én nô bức bay về mang theo tiếng hót véo von. Những bông hoa đào, hoa mai đua nhau nở rộ tô điểm cho đất trời thêm đẹp tươi. Chúng làm cho không khí mùa xuân trở nên trong lành và ngọt ngào. Ai ai cũng muốn ra ngoài để tận hưởng bầu không khí tuyệt vời ấy. Ngắm nhìn khung cảnh đất trời trong những ngày mùa xuân em càng cảm thấy yêu hơn quê hương tươi đẹp của mình.

SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free

Nature has given humans four seasons: spring, summer, autumn and winter. Each season has its own characteristics, attractiveness, and soul, but perhaps spring is the season I feel most unique and favorite.

If each degree of winter brings cold air from the south with drizzle, northerly winds, summer passes with scorching heat, spring is completely different. The weather of spring is pleasant, slightly chilly with torrential rains. And perhaps because of that weather, everything in spring is also fresh and full of life.

The scenes of trees reaching out to bud, sprouting, and putting on fresh green shirts look so beautiful. Peach blossoms, apricot blossoms, and plum blossoms are brilliant on the large space background, adding to the beauty of spring. In the sky, the swallows returning from the south to avoid the cold are hovering, chirping and singing to make spring more exciting. It seems that all things are playing, singing and full of joyful life to welcome a new spring.

Not only things, people also seem to change, be happier and more radiant to greet spring. People and families are shopping together for Tet, happily gathering around the pot of banh chung. Children are huddled in new clothes, chirping and singing. Everyone’s face was happy, radiant, full of joy.

Spring, the season of freshness, the season of change. Spring has brought nature, things and people’s lives with brilliant and wonderful colors.

Tạm dịch

Thiên nhiên đã ban tặng cho con người bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi mùa có những nét đặc trưng, hấp dẫn riêng, mang điệu hồn của nó nhưng có lẽ mùa xuân là mùa em cảm thấy độc đáo và yêu thích hơn cả.

Nếu mỗi độ đông đến mang theo hơi lạnh từ phương nam với những cơn mưa phùn, gió bấc, hè đi qua với những cơn nóng bỏng rát thì mùa xuân lại hoàn toàn khác. Cái tiết trời của mùa xuân dễ chịu, hơi se lạnh với những cơn mưa riêu riêu. Và có lẽ chính bởi tiết trời ấy nên vạn vật mỗi độ xuân về cũng tươi mới và tràn đầy sức sống hẳn lên.

Những cảnh cây vươn mình đâm chồi, nảy lộc, khoác lên mình những chiếc áo xanh non mơn mởn trông thật đẹp. Những bông hoa đào, hoa mơ, hoa mận rực sắc trên cả nền không gian rộng lớn, càng điểm tô cho sắc xuân thêm tươi đẹp. Trên nền trời, những cánh chim én tránh rét từ phương nam trở về đang chao lượn, ríu rít hát ca cho mùa xuân thêm rộn ràng. Dường như, vạn vật đều đang vui đùa, ca hát và ngập tràn sức sống tươi vui để đón chào một mùa xuân mới.

Không chỉ có vạn vật, con người dường như cũng thay đổi, vui tươi và rạng rỡ hơn để chào xuân. Người người, nhà nhà đang cùng nhau sắm Tết, quây quần vui vẻ bên nồi bánh chưng. Những đứa trẻ con đang xúng xính trong bộ quần áo mới, líu lo hát ca. Khuôn mặt ai nấy đều vui tươi, rạng rỡ, ngập tràn niềm vui sướng.

Mùa xuân, mùa của sự tươi mới, mùa của sự đổi thay. Mùa xuân đã mang đến cho thiên nhiên, vạn vật và cả cuộc sống của con người những gam màu rực rỡ và tuyệt diệu.

Giới Thiệu Văn Mẫu 🌿 Viết Về Thời Gian Rảnh Rỗi Bằng Tiếng Anh ❤️️15 Đoạn Văn Hay

Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh Văn Mẫu là tài liệu tham khảo hữu ích để các em có thể chuẩn bị cho kì thi của mình thật tốt.

Spring brings people and things a fresh and full of life. Spring has arrived on the beloved land, the sky and the earth have changed, putting on a wonderfully warm new outfit. In the clear blue sky, the swallow’s wings fly from the South as if dancing a spring dance. In the space, there is a little smell of damp earth, spreading all over everything the typical dust rain of the season. The rain covered the green grass, leaving drops of crystal clear water on the green buds.

When spring comes, many flowers bloom, it is said that spring is the season of reproduction. In winter, the trees shed their leaves, in spring, nature takes on new colors, the branches begin to sprout, the spring sprouts open to welcome a new life. Not only are the trees covered with green buds, but after the cold winter days, the spring flowers also become so bright.

The lovely pink buds bloomed with each other, blooming with yellow chrysanthemums and graceful peaches. On that spring day, everywhere was filled with vitality, everything seemed to adorn the fragrance of life. Truly the spring fairy is bestowing miracles on all things in the world.

Spring not only returns to heaven and earth, but spring also returns to people’s hearts. The moment when spring comes, New Year’s Eve with a peaceful new year with my family. Warmly gather around the tray of offerings to grandparents and parents, watching fireworks in a peaceful atmosphere. Spring is a new year for every human being. So many children showing off their new clothes and smiling with red red envelopes.

It is the season of reunion, bringing people closer together, everywhere is bustling with excitement, people wear beautiful clothes to welcome colorful Tet with bright smiles on bright faces. People go to festivals and New Year’s Masses together to pray for themselves and their loved ones for a new year of peace, happiness and good luck.

Somewhere, music is heard: Spring, spring, spring has come. The heart is filled with joy. I love spring very much, love the scenery when spring comes and the warm atmosphere of the season. At that time, everything was immersed in the spring scene, spring love.

Tạm dịch

Mùa xuân mang đến cho con người và vạn vật một sức sống tươi mới căng tràn. Xuân đã về trên mảnh đất thân thương, đất trời chuyển mình, khoác lên người bộ áo mới ấm áp đến kì diệu. Trên trời xanh thoáng đãng, cánh én chao liệng từ phương Nam về như đang múa vũ điệu mùa xuân. Trong không gian vương chút mùi ẩm ướt của đất, giăng mắc khắp vạn vật làn mưa bụi đặc trưng của mùa. Mưa phủ lên những ngọn cỏ xanh mướt, đọng lại những giọt nước long lanh trong suốt như viên pha lê trên lộc non xanh biếc.

Xuân sang muôn vàn bông hoa nở rộ, người ta nói mùa xuân là mùa sinh sôi nảy nở. Mùa đông qua cây trút lá, mùa xuân về thiên nhiên khoác màu áo mới, những cành cây bắt đầu đâm chồi nảy lộc, mầm xuân hé mở chào đón một cuộc sống mới. Không chỉ có những tán cây phủ lộc xanh, mà sau những ngày đông lạnh giá, những bông hoa xuân cũng trở nên tươi sắc biết bao.

Những nụ hồng xinh xắn chớm nở đua nhau khoe sắc với bông cúc vàng và nàng đào duyên dáng. Ngày xuân ấy, đi đâu cũng tràn ngập nhựa sống, tất cả như tô sắc điểm hương cho cuộc đời. Quả là nàng tiên mùa xuân đang ban phát những phép màu cho vạn vật trần gian.

Xuân không chỉ về với đất trời mà xuân còn về trong lòng người nữa. Khoảnh khắc khi xuân về, đêm giao thừa với một năm mới bình an bên gia đình của mình. Ấm áp sum vầy bên mâm cỗ cúng ông bà cha mẹ, ngắm pháo hoa trong không khí an lành. Xuân về là năm mới đối với mỗi con người. Biết bao em thơ khoe áo mới tươi cười với những chiếc lì xì đỏ thắm.

Đó là mùa đoàn viên, kéo mọi người lại gần nhau hơn, đâu đâu cũng đông vui náo nhiệt, mọi người mặc quần áo đẹp đi đón tết đủ sắc màu với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt sáng ngời. Người ta cùng nhau đi hội, đi lễ đầu năm để cầu nguyện cho mình và người thân một năm mới bình an, hạnh phúc và gặp nhiều may mắn.

Đâu đó vang lên tiếng nhạc: Xuân ơi xuân, xuân đã về. Lòng người tràn ngập niềm vui. Em rất yêu mùa xuân, yêu cảnh vật khi xuân về và không khí ấm áp của mùa. Khi ấy, vạn vật đắm chìm trong cảnh xuân, tình xuân.

Đọc Thêm Bài 🍀 Cảm Nghĩ Về Mùa Xuân ❤️️ 18 Bài Văn Biểu Cảm Hay Nhất

Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh Ngắn Gọn và súc tích thể hiện qua từng câu văn, lối diễn đạt đa dạng.

Of the four seasons, spring can be said to be the most beautiful season, not only because of its charming features such as green leaves, hundreds of flowers blooming, birds chirping, but also because of the weather. peaceful and warm.

The new spring is coming, the spring colors are brilliant on the streets, the trees are wrapped with the spring wind, our hearts are filled with joy in the peace, suddenly quiet, listening to the sincere lyrics of the musicians. The multi-talented artist always believes in the true values ​​of human life. A gentle, smooth waltz is appropriate when heaven and earth are shyly putting on a brilliant spring coat.

Spring gently brings the swallow back, wide and dreamy. It seems that spring is so simple with the sound of a cock crowing in the distance when the golden afternoon sun drops and the smoke drifts gently through the tree canopy, the leaves are expressive, moving people’s hearts. People rejoice at the fresh spring scene.

Spring is the season of harmony between heaven and earth, the season of hopes and dreams, the season of abundant crops and reunion. Spring is the season of intense vitality, the season for the trees to sprout, the season for the green sprouts to get out of their rough cover to reach out to welcome the warm and magical rays of the sun. Spring brings people one year older. For children, spring is the season of growth both physically and mentally.

Spring is the beginning of a new year, a new intention, a new future. Spring is the season of family reunion. Whoever has a soul that loves beauty has never been moved by the beauty of spring. Spring comes, revitalizing life for all species, spring is joyful from the golden sun. From the green leaves, from the tender young shoots, from the drizzling rain, from the blooming flowers to the rich brown color of the soil, that simple, rustic brown color nourishes all species. .

Tạm dịch

Trong bốn mùa, mùa xuân có thể nói là một mùa đẹp nhất, không phải chỉ vì những nét yêu kiều diễm lệ của nó như cây lá xanh tươi, trăm hoa đua nở, chim chóc véo von, mà còn cả vì cái khí tiết ôn hòa và ấm áp.

Mùa xuân mới đang dần tới, sắc xuân rực rỡ trên những phố phường, cây cỏ quấn với gió xuân, lòng ta tràn ngập niềm vui sướng trong sự thanh bình, chợt lặng lại, bồi hồi nghe những lời ca chân thành của người nhạc sĩ đa tài luôn tin vào những giá trị chân thật của cuộc sống con người. Một điệu Valse nhẹ nhàng, êm ái thật thích hợp khi trời đất đang bẽn lẽn khoác lên mình chiếc áo rực rỡ của mùa xuân.

Mùa xuân dặt dìu theo con én lượn về, mênh mang và mơ màng. Tưởng chừng như xuân thật đơn giản với tiếng gà gáy xa xa khi những giọt nắng trưa vàng cùng những sợi khói bềnh bồng nhè nhẹ qua vòm cây, kẽ lá xong lại có sức biểu cảm, lay động lòng người. Người người hớn hở trước cảnh mùa xuân tươi.

Mùa xuân là mùa của đất trời giao hòa, mùa của hy vọng và ước mơ, mùa của mùa màng no ấm và sum họp. Mùa xuân là mùa của sức sống mãnh liệt, mùa để cây lá đâm chồi nảy lộc, mùa của những mầm non xanh mơn mởn thoát khỏi lớp vỏ bọc xù xì để vươn vai đón chào những tia nắng ấm áp diệu kì. Mùa xuân mang lại cho con người thêm một tuổi. Đối với thiếu nhi mùa xuân là mùa của sự trưởng thành về thể chất lẫn tâm hồn.

Mùa xuân là sự mở đầu cho một năm mới, một dự định mới, một tương lai mới. Mùa xuân là mùa của sự đoàn tụ gia đình. Ai có tâm hồn yêu cái đẹp chẳng từng một lần thấy rung động trước vẻ đẹp của mùa xuân. Xuân tới, hồi sinh sức sống cho muôn loài, xuân tươi vui từ cái nắng vàng hửng lên. Từ cái lá cây xanh biếc, từ chồi non mơn mởn, từ cơn mưa phùn lất phất, từ những loài hoa đua nhau khoe sắc đến màu nâu mỡ màng của đất, cái màu nâu giản dị mộc mạc ấy nhưng lại nuôi sống muôn loài.

Chia Sẻ Bài 🍀 Tả Cảnh Mùa Xuân Trên Quê Hương Em ❤️️15 Bài Hay

Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh Hay Nhất được chúng tôi chọn lọc và giới thiệu đến bạn đọc sau đây.

Spring is the beginning of a year, also the most beautiful season of the year because it brings people the warmest and most joyful atmosphere. Spring is often associated with Tet, usually starting in January and ending in March. This is a period of mild, warm weather, still chilly but sunny. Everyone is always looking forward to the coming of spring, because they can celebrate the traditional New Year and gather together warmly.

Spring scenery is always full of life. The peach petals of the north and the apricot blossoms of the south race to bloom, carrying all the flavors and colors of spring. Tall tree branches began to sprout green shoots, smooth like gentle strokes in the high blue sky.

The spring morning is so fresh and warm, the wind only blows softly and the swallows are flying in flocks from the South, signaling the arrival of spring. The sky seemed to be clear, each blue and white cloud followed one another slowly drifting away. In the gardens, my mother’s newly planted vegetables are green, with a few tiny dewdrops remaining. Wait until the sun rises, it will melt. The children in the neighborhood happily laughed when spring came, about to turn a year old, and received red envelopes.

Spring is so beautiful, spring is the season when everything changes. The arrival of spring has blown up new life for nature and people. Nature has given us a beautiful spring, we have to cherish and cherish that wonderful moment even more.

Tạm dịch

Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm, cũng là mùa đẹp nhất trong năm vì mang đến cho con người không khí ấm áp, vui tươi nhất. Mùa xuân thường gắn liền với Tết, thường bắt đầu vào tháng 1 và kết thúc vào tháng 3. Đây là khoảng thời gian thời tiết êm dịu, ấm áp, vẫn còn se se lạnh nhưng có ánh nắng mặt trời. Mọi người vẫn luôn mong chờ mùa xuân đến, vì được đón Tết cổ truyền, được quây quần bên nhau ấm áp.

Cảnh vật mùa xuân luôn tràn đầy sức sống. Những cánh hoa đào của miền bắc và hoa mai của miền nam đua nhau khoe sắc, chở bao nhiêu dư vị và màu sắc của mùa xuân. Những cành cây cao vút bắt đầu nhú những mầm non xanh nõn, mượt mà như những nét chấm phá nhẹ nhàng giữa bầu trời cao trong xanh.

Buổi sáng mùa xuân thật trong lành, ấm áp, gió chỉ thổi thật khẽ và những chú chim én đang từng đàn bay từ phương Nam trở về báo hiệu mùa xuân đã đến. Bầu trời dường như thoáng đãng, từng đám mây xanh trắng nối đuôi nhau trôi đi thật chậm rãi. Trong những khu vườn, những khóm rau mới trồng của mẹ xanh mướt, còn đọng lại một vài hạt sương nhỏ bé tí. Chờ khi ánh nắng mặt trời lên thì sẽ tan ra. Lũ trẻ con trong xóm vui cười hớn hở khi mùa xuân về, lại sắp thêm một tuổi, lại được nhận những phong thư lì xì.

Tham Khảo 🍀 Viết Về Mùa Hè Bằng Tiếng Anh ❤️️ 15 Đoạn Văn Hay Nhất

Viết Về Cảnh Đẹp Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh, cùng tham khảo mẫu văn hay được gợi ý sau đây.

Four seasons in heaven and earth, each season has its own unmistakable beauty. Summer brings bright, brilliant sunshine that makes flowers more fragrant and fruits sweeter. Autumn evokes sadness in everyone’s heart when each leaf that was once green has left its branches one by one. Winter comes with the cold, but it is also interesting to be wrapped in a warm blanket, sitting by the red fire. But, perhaps within that cycle of four seasons, there is no one who does not love spring, not eagerly, and look forward to each spring’s arrival.

Spring is the first curtain, the prelude of nature, the step marking a new cycle of birth and growth of all things. The spring girl in a beautiful outfit but also very graceful, blowing a fresh, fresh breeze to wake up heaven and earth after a long sleep. On the branches, I saw new green leaves sprouting, escaping from the rough bark to reach for the first warm rays of the sun.

In the garden, thousands of flowers race to show off their beautiful colors, no matter how beautiful they are, they must be shy and embarrassed by the beauty of the spring girl. These flowers make the spring picture richer and more colorful. The sky was no longer gray, but high and blue. A few swallow wings sway in the mild, warm spring weather.

The birds also sang hello to the coming spring, contributing to the bustling and exciting spring atmosphere. Another characteristic sign of spring is the gentle dusty rain that flies. Rain hung on every leaf, blade of grass, shoulder, hair. Rain makes everything more pure, fresh, space more blurred.

Peach and apricot branches bathed in spring rain become more brilliant. Spring is also the season of festivals, the ancients used to say: “January is the month of fun”. The crisp sound of drums resounded throughout the space, making people’s hearts flutter and excited.

People look forward to spring with an open heart to integrate with heaven and earth. Spring brings a new beginning, new joys, happiness and good luck. Standing before the spring of heaven and earth, we cannot help but be surprised by the beauty of nature. We also see that our souls are rejuvenated, bursting with confidence and hope in a new year filled with peace and happiness.

Spring is also associated with the traditional Tet holiday of the nation. After a year of many worries and hardships, this is an opportunity for everyone to gather and gather around a cozy family meal. The arrival of spring has blown up new life for nature and people. Nature has given us a beautiful spring, we have to cherish and cherish every drop of spring that is falling on our hands.

Tạm dịch

Bốn mùa trong đất trời, mỗi mùa đều có một vẻ đẹp riêng không thể trộn lẫn. Mùa hạ đem đến cái nắng vàng chói chang, rực rỡ làm cho hoa thêm thơm, trái thêm ngọt. Mùa thu gợi nỗi buồn vẩn vơ trong lòng mỗi người khi từng chiếc lá hôm nào còn xanh nay đã lần lượt lìa cành. Mùa đông đến cùng cái rét cắt da cắt thịt nhưng cũng thú vị làm sao khi được ủ mình trong chăn ấm, ngồi bên bếp lửa hồng. Nhưng, có lẽ trong vòng tuần hoàn bốn mùa ấy, chẳng ai là không yêu mùa xuân, không háo hức, mong đợi mỗi khi mùa xuân tới.

Mùa xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của thiên nhiên, là bước đánh dấu một chu kì sinh sôi nảy nở mới của vạn vật. Nàng xuân trong bộ cánh xinh đẹp mà cũng thật kiều diễm, thổi làn gió trong lành, tươi mát đánh thức đất trời sau giấc ngủ dài. Trên cành cây đã thấy những chiếc lá xanh mới nhú, thoát khỏi lớp vỏ xù xì để đưa tay hứng lấy những tia nắng ấm áp đầu tiên.

Trong vườn, ngàn loài hoa đua nhau khoe sắc thắm, dẫu có xinh tươi đến mấy cũng phải e thẹn, ngại ngùng trước vẻ đẹp của nàng xuân. Những loài hoa ấy làm cho bức tranh xuân càng thêm phong phú và rực rỡ muôn màu. Bầu trời đã không còn xám xịt nữa mà cao xanh vời vợi. Vài cánh én chao nghiêng trong tiết xuân ôn hòa, ấm áp.

Những chú chim cũng hót vang lên bài ca chào mùa xuân đến, góp vui vào không khí xuân đang rộn ràng, náo nức. Một dấu hiệu đặc trưng khác của mùa xuân là những cơn mưa bụi nhè nhẹ bay. Mưa giăng mắc trên từng lá cây, ngọn cỏ, trên bờ vai, mái tóc. Mưa làm cho vạn vật thêm tinh khôi, tươi mới, không gian thêm mờ ảo.

Những cành đào, cành mai được tắm mưa xuân càng trở nên rực rỡ. Mùa xuân cũng là mùa của lễ hội, người xưa vẫn thường nói: “Tháng giêng là tháng ăn chơi”. Những tiếng trống giòn giã vang khắp không gian làm cho lòng người không khỏi bồi hồi, háo hức.

Con người đón chờ mùa xuân bằng tâm hồn rộng mở để hòa nhập với đất trời. Mùa xuân đem đến một khởi đầu mới, những niềm vui, hạnh phúc và may mắn mới. Đứng trước mùa xuân của đất trời, ta không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Ta cũng thấy tâm hồn mình như trẻ lại, bừng lên niềm tin tưởng, hi vọng vào một năm mới ngập tràn bình an, hạnh phúc.

Mùa xuân cũng gắn với ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Trải qua một năm nhiều lo toan, vất vả, đây là dịp để mọi người sum họp, cùng nhau quây quần bên mâm cơm gia đình ấm cúng. Mùa xuân đến đã thổi bùng lên sức sống mới cho thiên nhiên và con người. Tạo hóa đã ban cho chúng ta một mùa xuân tươi đẹp, chúng ta lại càng phải trân trọng và nâng niu từng giọt mùa xuân đang rơi trên đôi tay.

Giới Thiệu Bài 🍀 Viết Đoạn Văn Về Mùa Yêu Thích Bằng Tiếng Anh ❤️️15 Mẫu

Bài Văn Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh giúp các em có thể trao dồi thêm cho mình nhiều kiến thức hay trong cuộc sống.

Spring is often compared to the season of life, the season of faith, the season of youth. Perhaps because spring always brings with it a joyful and energetic atmosphere of nature. Spring comes when the cold of winter has passed. On the branches, the first young buds have begun to sprout. On the land outside my mother’s garden, there are many sprouts also sprouting. They had waited too long to get themselves out of the ground. The air is only a little chilly, not bitterly cold like winter days.

Especially the typical drizzle of spring. As always, the light drizzles that are not enough to wet the shirt always come in the first days of spring. They are like a specialty that only spring has. After drizzly days, there will be warm sunny days. The gentle sunshine is just enough to make people fall in love. Sister wind also rushed to play with flowers and plants. The leaves cried out with joy.

In the sky, flocks of birds flocked together from the South to bring a joyful and happy atmosphere. On the crowded street, people pass by. Our school also organizes meetings in early spring, organizes New Year’s tree planting day, etc. Those are very meaningful activities. Spring makes heaven and earth bloom, people’s hearts are like flowers. Looking at the vitality of all living beings is like being given a new life.

Tạm dịch

Mùa xuân vẫn thường được ví như là mùa của sự sống, mùa của niềm tin, mùa của tuổi trẻ. Có lẽ bởi mùa xuân đến luôn mang theo không khí vui tươi, hừng hực sức sống của thiên nhiên. Mùa xuân đến đó là khi cái lạnh giá của mùa đông đã đi qua. Trên những cành cây, những búp non đầu tiên đã bắt đầu đâm chồi. Trên mảnh đất ngoài vườn của mẹ, có rất nhiều mầm non cũng đang nhú lên. Chúng đã đợi quá lâu để được bung mình khỏi mặt đất. Không khí chỉ còn chút se se lạnh chứ không rét căm căm như những ngày mùa đông.

Đặc biệt nhất là những cơn mưa phùn đặc trưng của mùa xuân. Bao giờ cũng vậy, những cơn mưa phùn nhẹ chưa đủ làm ướt áo luôn đến vào những ngày đầu tiên của mùa xuân. Chúng như một thứ đặc sản mà chỉ riêng mùa xuân mới có. Sau những ngày mưa phùn sẽ có những ngày nắng ấm. Cái nắng nhẹ nhàng vừa đủ khiến người ta yêu mến. Chị gió cũng ùa về đùa dỡn với cỏ cây hoa lá. Cây lá thì reo lên vui mừng.

Trên bầu trời, từng đàn chim rủ nhau từ phương Nam bay về mang theo không khí vui tươi, hạnh phúc. Trên đường phố đông đúc người qua, kẻ lại. Trường chúng em cũng tổ chức những buổi gặp gỡ đầu xuân, tổ chức ngày Tết trồng cây,… Đó là những hoạt động vô cùng ý nghĩa. Mùa xuân khiến đất trời như nở hoa, lòng người cũng như có bông hoa đua nở. Nhìn vào sức sống của muôn loài em cũng như được tiếp thêm cho mình sức sống mới.

Mời bạn đón đọc 🍀 Viết Về Kỳ Nghỉ Bằng Tiếng Anh Có Dịch 🍀18 Đoạn Văn Hay

Bài Viết Về Mùa Xuân Bằng Tiếng Anh Đạt Điểm Cao để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với lối văn hay và sáng tạo.

Spring is one of four distinct seasons in Northern Vietnam, following winter and preceding summer. Spring plays an important and interesting role in traditional Vietnamese culture.

Spring comes after winter and before summer. A typical Vietnamese spring lasts for 2-3 months, from February to April. The weather is quite nice. Sometimes the remaining cold would still approach you, but for most of the time, the weather is warm, breezy. I can wear your best outfit for the holidays with this weather. When going out, I always remember to bring an umbrella or a raincoat so as not to get wet from the drizzling rain. It can drizzle for days, which helps the plants grow and the flowers bloom.

Spring is the symbol of rebirth, rejuvenation, renewal, resurrection, and regrowth. Flowers bloom and trees begin to grow and reproduce. Many flowering trees bloom at this time of year. This is the best time for outdoor activities! I would ask my friends to go on a picnic and enjoy the beauty of nature.

We enjoy taking a walk in a field of flowers and listening to the delightful sound from the birds. We chat and sing some bright music among colorful flowers and beautiful green leaves. Also, young people often go to the Spring Book Festival, Cherry Blossom Festival, … and take a lot of pictures there. When spring comes, we celebrate Tet, which is is the most important celebration in Vietnamese culture. Tet is also an occasion for family reunions.

They start forgetting about the troubles of the past year and hope for a better upcoming year. Before Tet, we do all the preparation. Going to the flower market to get a peach blossom tree or a kumquat tree is one of our traditions. The streets are decorated with colorful lights and flowers.

On New Year’s Eve, we gather and watch the national comedy show “Gap Nhau Cuoi Nam” and firework display at exactly 0 a.m. During subsequent days, people visit relatives and friends. I always look forward to receiving lucky money in red envelopes as good luck from elder people. We worship at the family altar and visit the graves of our ancestors. My family also goes to the temple or pagoda to pray for best wishes in a new year.

Spring comes with an awakening and blooming idea to everything. To me, this is the brightest and most interesting season!

Tạm dịch

Mùa xuân là một trong bốn mùa ở miền Bắc Việt Nam, xuất hiện sau mùa đông và trước mùa hè. Mùa xuân đóng một vai trò quan trọng và thú vị trong văn hóa truyền thống Việt Nam.

Mùa xuân đến sau mùa đông và trước mùa hè. Một mùa xuân Việt Nam điển hình kéo dài trong 2-3 tháng, từ tháng 2 đến tháng 4. Thời tiết khá đẹp. Đôi khi cái lạnh còn từ mùa đông vẫn sẽ tiếp cận bạn, nhưng trong hầu hết thời gian, thời tiết ấm áp, có gió nhẹ. Tôi có thể mặc những bộ quần áo đẹp nhất với thời tiết này. Khi đi ra ngoài, tôi luôn nhớ mang theo dù hoặc áo mưa để không bị ướt do mưa phùn. Mưa phùn có thể kéo dài đến vài ngày, giúp cây cói phát triển và hoa nở rộ.

Mùa xuân là biểu tượng của sự tái sinh, trẻ hóa, đổi mới, phục sinh và phục hồi. Hoa nở và cây bắt đầu mọc trở lại. Nhiều cây có hoa nở vào thời điểm này trong năm. Đây là thời gian tốt nhất cho các hoạt động ngoài trời! Tôi rủ bạn bè đi dã ngoại và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên.

Chúng tôi thích đi dạo trên một cánh đồng hoa và lắng nghe âm thanh thánh thót từ những chú chim. Chúng tôi trò chuyện và hát một vài bản nhạc tươi sáng giữa những bông hoa đầy màu sắc và những chiếc lá xanh tuyệt đẹp. Ngoài ra, người trẻ thường đến Lễ hội sách mùa xuân, lễ hội hoa anh đào, … và chụp rất nhiều ảnh ở đó. Khi mùa xuân đến, chúng ta đón Tết, ngày lễ quan trọng nhất trong văn hóa Việt Nam. Tết cũng là dịp để đoàn tụ gia đình.

Mọi người quên đi những rắc rối của năm vừa qua và hy vọng một năm sắp tới tốt đẹp hơn. Trước Tết, chúng tôi làm tất cả các công việc để chuẩn bị. Đi đến chợ hoa để mua một cây hoa đào hoặc một cây quất là một trong những truyền thống của chúng tôi. Các đường phố được trang trí với đèn và hoa đầy màu sắc.

Vào đêm giao thừa, chúng tôi tụ tập và xem chương trình hài kịch quốc gia “Gặp Nhau Cuối Năm” và xem bắn pháo hoa vào đúng 0 giờ. Trong những ngày tiếp theo, mọi người đến thăm họ hàng và bạn bè. Tôi luôn mong nhận được tiền lì xì trong phong bao đỏ như là lời chúc may mắn từ những người lớn tuổi. Chúng tôi cúng viếng trước bàn thờ và viếng mộ tổ tiên. Gia đình tôi cũng đến chùa hoặc chùa để cầu nguyện cho những lời chúc tốt đẹp nhất trong một năm mới.

Mùa xuân đến với sự thức tỉnh và nở rộ cho vạn vật xung quanh. Với tôi, đây là mùa tươi sáng và thú vị nhất!

Gửi đến bạn 🍃 Viết Về Quê Hương Bằng Tiếng Anh 🍃 20 Đoạn Văn Làng Quê Hay

Phân Tích Bài Thơ Đi Đường ❤️️ 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Bài Thơ Đi Đường ❤️️ 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất ✅ Chọn Lọc Và Chia Sẻ Tuyển Tập Bài Viết Đặc Sắc Phân Tích Tác Phẩm Thơ Hồ Chí Minh.

I. Mở bài phân tích bài thơ Đi đường:

Giới thiệu về Bác Hồ

Giới thiệu về bài thơ: Nằm trong tập “Nhật kí trong tù”

Ý nghĩa của bài thơ: Ca ngợi tinh thần, ý chí vượt gian khổ của Bác.

II. Thân bài phân tích bài thơ Đi đường:

a. Câu 1:

“Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan”: Có đi đường mới biết đường khó đi: Đây không phải sự miêu tả con đường đơn thuần mà nhằm gợi lên những suy ngẫm sâu sắc

Điệp từ “tẩu lộ” nhấn mạnh việc đi đường rất gian khổ, chỉ có người từng trải mới cảm nhận được hết sự vất vả đó

Đó chính là ẩn dụ chỉ con đường Cách mạng, con đường đầy gian nan thử thách

b. Câu 2:

Câu thơ khắc họa rõ nét những khó khăn gian khổ, những chông gai mà người tù phải trải qua “trùng san chi ngoại hựu trùng san”

Câu thơ mang nghĩa có rất nhiều núi cao, hết núi cao này lại đến núi cao khác, khó khăn không giảm, không ngớt

“hựu trùng san”: khẳng định khó khăn không những không giảm đi mà còn có sự tăng cấp

Điệp từ “trùng san” cộng thêm từ “hựu” càng làm tăng thêm sự gian truân, khó nhọc, hiện lên trước mắt người đọc những ngọn núi cao trọc trời

c. Câu 3:

“Trùng san đăng đáo cao phong hậu”: Diễn tả hoàn cảnh vượt mọi hoàn cảnh khó khăn gian khổ để “lên đến tận cùng”: Mọi gian khổ rồi sẽ kết thúc, mọi khó khăn sẽ lùi về sau

Thấy rõ tứ thơ cổ điển “đăng cao” cùng phong hái ung dung chiếm lĩnh cảnh vật, hòa mình vào vũ trụ bao la, rộng lớn

Con người như sánh ngang với thiên nhiên vũ trụ, ung dung giữa trời đất, ta không thấy ở đó bóng dáng của một người tù đang bị giam cầm trong thực tại mà chỉ thấy một tâm hồn tự do chiếm lĩnh

Có trải qua gian khổ thì mới tới đích, càng gian khổ thì càng gần tới đích hơn

d. Câu 4:

“Vạn lí dư đồ cố miện gian”: Lúc này người đi đường như một du khách ung dung say sưa ngắm nhìn lại khung cảnh thiên nhiên bao la, ngắm lại những gì mình đã trải qua. Thể hiện tâm thế con người làm chủ thiên nhiên, đất trời

Từ việc đi đường, bài thơ mang đến một chân lí đường đời đó là vượt qua được gian lao sẽ đi được tới thành công

e. Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ Đi đường:

III. Kết bài phân tích bài thơ Đi đường:

Khái quát những nét chủ yếu về giá trị nội dung và nghệ thuật làm nên thành công của văn bản

Tài năng và khí chất của chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng là tấm gương cho thế hệ trẻ học tập và noi theo

Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Tức Cảnh Pác Bó 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

“Đi đường” là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt số 30 trong “Nhật kí trong tù”. Lúc bấy giờ, Hồ Chí Minh đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giải lui giải tới qua nhiều nhà tù trên tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trải qua bao cay đắng thử thách nặng nề, Người gửi gắm bao suy nghĩ, cảm xúc của minh vào bài thơ “Tẩu lộ” này. Nam Trân đã dịch thành thơ lục bát:

Bài thơ mang hàm nghĩa: tác giả mượn chuyện đi đường – để nêu lên cảm nhận đường đời vô cùng khó khăn, nguy hiểm; phải có quyết tâm cao, nghị lực mới chiến thắng thử thách, mới giành được thắng lợi vẻ vang.

Hai câu đầu trong bài thơ chữ Hán có nghĩa là:

Câu thứ nhất nêu lên một kinh nghiệm, một chiêm nghiệm sống ở đời, đó là chuyện đi đường và bài học đi đường khó. Với nhà thơ, con đường được nói tới còn là con đường cách mạng vô cùng nguy hiểm: “Là gươm kề tận cổ, súng kề tai – Là thân sống chỉ coi còn một nửa” (“Trâng trối – Tố Hữu). Hình ảnh con đường được miêu tả bằng điệp ngữ “trùng san” đã làm nổi bật khó khăn, thử thách chồng chất, người đi đường luôn luôn đối diện với bao gian khổ. Câu thơ chữ Hán không hề có chữ “cao”‘, dịch giả đã thêm vào, người đọc thơ cần biết:

Hai câu thơ đầu về mặt văn chương chữ nghĩa không có gì mới. Ý niệm: “hành lộ nan” đã xuất hiện trong cổ văn hơn nghìn năm về trước. Thế nhưng vần thơ Hồ Chí Minh hay và sâu sắc ở tính nghiệm sinh; nó cho thấy trải nghiệm của một con người “ba mươi năm ấy chân không nghỉ” (Tố Hữu), để tìm đường cứu nước. Con đường mà người chiến sĩ ấy đã vượt qua đâu chỉ có “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà còn đầy phong ba bão táp, trải dài trải rộng khắp bốn biển năm châu:

Người xưa có nhắc: “Đọc sách người ấy, đọc thơ người ấy, phải biết con người ấy” là thế.

Hai câu cuối cấu trúc theo mối quan hệ điều kiện – hệ quả. Khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao chót vót (cao phong hậu) thì muôn dặm nước non (vạn lí dư đồ) thu cả vào tầm mắt:

Muốn vượt qua các lớp núi lên đỉnh cao chót vót thì phải có quyết tâm và nghị lực lớn. Chỉ có thế mới giành được thắng lợi vẻ vang, thu được kết quả tốt đẹp. Câu thơ Hồ Chí Minh hàm chứa bài học quyết tâm vượt khó, nêu cao ý chí và nghị lực trong cuộc sống để giành thắng lợi. Bài học “Đi đường” thật là vô giá đối với bất cứ ai.

“Nhật kí trong tù” có nhiều bài thơ viết về đề tài “đi đường” như “Thế lộ nan”, “Tẩu lộ”, “Lộ thượng”,… Đó là những vần thơ giàu chất trí tuệ, mang ý vị triết lí, được đúc kết từ máu và nước mắt:

Bài thơ “Đi đường” cho ta bài học về đường đời nhiều khó khăn nguy hiểm, bài học về quyết tâm, vượt khó, vươn lên giành thắng lợi trên con đường đời. Mỗi cuộc đời là một trăm năm, ai cũng phải một trăm năm đi đường. Có con đường lao động mưu sinh, có con đường công danh lập nghiệp. Tuổi trẻ còn có con đường học tập. Bài thơ “Đi đường” trở thành hành trang cho mỗi chúng ta sức mạnh để vươn lên thực hiện ước mơ của mình.

Tiếp theo tham khảo 🌹 Phân Tích Bài Thơ Ông Đồ 🌹 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Đó là tâm sự của một người tù đặc biệt: Hồ Chí Minh, người tù vì mang tội làm gián điệp khi đang bôn ba tìm đường giải phóng dân tộc và đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Với mục đích đơn sơ là ghi lại những sự việc, cảm xúc trong mười bốn tháng bị giam cầm, bài thơ “Đi đường” dịch từ bản gốc là “Tẩu lộ” thực sự là một bài thơ nhật kí chân thành và sâu sắc.

Bản dịch:

Nếu ai không biết hoàn cảnh ra đời của bài thơ này, có lẽ nghĩ rằng đây là lời thơ của một khách nhàn du thưởng ngoạn danh lam thắng cảnh! Có ngờ đâu chuyện “đi đường” của tác giả không phải là chuyện trèo núi ngao du, mà là chuyện đi đường của một tù nhân: đi trong cột trói, đi trong nỗi đọa đày về tinh thần lẫn thể chất. Tác giả đã nói về điều này ở bài “Trên đường đi”:

Hay là:

Hay là:

Có mường tượng ra cảnh đi đường như thế, ta mới thấu hiểu hai chữ “gian lao” trong câu thơ “đi đường mới biết gian lao” của tác giả. Nếu một người phải lặn lội đường xa với “núi cao rồi lại núi cao trập trùng” mà được thong dong ăn uống, nghỉ ngơi, đã thấy rã rời chân tay vì đường xa, không có xe cộ.

Vậy mà trong hoàn cảnh ăn uống thiếu thốn của tù nhân, lại đeo thêm xích xiềng, đi trong mưa gió, lại không được tự do ngơi nghỉ, thì có phải là một thử thách lớn lao vô cùng? Vậy mà ở đây, lời thơ không mang nỗi oán than, mà chỉ như là một sự khám phá, một sự chiêm nghiệm về cuộc sống: “Đi đường mới biết gian lao”, qua đó ta cảm nhận được bản lĩnh và nghị lực của một nhà thơ chiến sĩ,

Ở câu hai, tác giả tả cảnh núi non hiểm trở, cũng không hề tả nỗi nhọc nhằn vì xiềng xích của mình. Câu thơ là một cách độc thoại nội tâm, một sự suy ngẫm về lẽ đời và sự ghi chép khi đã tìm ra được một chân lí thú vị trong lúc phải chịu đựng những cảnh đọa đày phi lí, phi nhân.

Dân gian Việt Nam từng mượn chuyện đi đường để khuyến khích, động viên con cháu: “đi một ngày đàng, học một sàng khôn” ở câu hai này, phép dùng điệp ngữ “trùng san” và hư từ được dịch ra là: “núi cao rồi lại núi cao trập trùng” thật là một gợi tả mang tính tượng trưng về con đường đời của mỗi người, hay con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, vừa là cảnh tả thực con đường Bác phải trải qua. Qua hai câu sau, tứ thơ biến chuyển bất ngờ:

Bản dịch thơ của Nam Trân là:

Tuy là bản dịch hay nhất, nhưng dịch giả vẫn không diễn tả được cái ý cảm động của tác giả trong ba từ “cố miện gian”. Cả câu bốn diễn tả tư thế của một người tha hương, lên đứng tận đỉnh núi cao chót vót, quay đầu lại nhìn non sông cố quốc với tấm lòng lưu luyến, trĩu nặng nhớ thương. Đến đây, chúng ta hãy thử đọc bài Lên lầu Quan tước của Vương Chỉ Hoán đời Đường:

Cũng là hai thi nhân “Đăng cao”, nhưng một người đi mãi mới đến đỉnh núi cao ngất. Một người chỉ cần bước lên một tầng lầu. Người thì bôn ba khắp bốn phương trời để phấn đấu. Một người nhàn du, sống nơi u nhã để thưởng lãm sơn thủy.

Dù sao chúng ta hãy trở lại tâm tư của nhà thơ chiến sĩ. Đó là một hình ảnh và tâm sự của một con người “Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước”, một ngòi bút mang tính nhân văn với những khao khát tự do cho dân tộc và quê hương việt Nam. Một nỗi khao khát mà suốt đời Người đã thực hiện.

Đọc nhiều hơn ☀️ Cảm Nhận Về Bài Thơ Quê Hương ☀️ 15 Bài Văn Hay Nhất

Bài thơ “Đi đường” được rút ra trong tập “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh. Tác phẩm được viết trong hoàn cảnh Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ năm 1942 và phải chịu cảnh đày ải hết nhà lao này tới nhà lao khác, vất vả, gian lao vô cùng. Bài thơ không chỉ dừng lại ở bức tranh tả cảnh núi non trên đường chuyển lao mà ẩn chứa trong đó còn chất chứa tư tưởng triết lí đường đời sâu sắc mà Bác đã đúc kết, chiêm nghiệm được từ trong hoàn cảnh đặc biệt này: vượt qua gian lao chồng chất sẽ đi tới thắng lợi vẻ vang.

Trước hết bài thơ là một câu chuyện nhỏ về việc đi đường của Bác trong những năm tháng bị chính quyền tàu Tưởng bắt giữ:

Dịch thơ:

Ở câu khai đề, nhà thơ đã đưa ngay đến một bài học có tính chất nhận định chắc chắn: có đi đường thì mới biết đường đi khó. Đây không phải là một nhận định mang tính chủ quan mà hoàn toàn xuất phát từ hoàn cảnh thực mà chính Bác đang và đã trải qua.

Bởi trong hoàn cảnh đó, ngày nào cũng thế Bác thường xuyên bị áp giải đi hết nơi này đến nhà lao nơi ở khác ở Quảng Tây, nhiều khi tưởng chừng không thể chịu đựng nổi vì phải chịu cảnh đày ải rất khổ cực: “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích… đi mãi đi mãi mà không biết đi đâu về đâu.

Dầm mưa dãi nắng, trèo núi qua truông… qua gần ba mươi nhà tù” (Trần Dân Tiên). Vì thế, câu thơ được viết lên từ một hiện thực trần trụi của một con người từng trải nên vô cùng thuyết phục. Tới câu thừa đề, nhà thơ chỉ rõ ra sự vất vả, gian lao của đường đi khó:

Với kết cấu trùng điệp lặp lại hai chữ “trùng san” (hết lớp núi này tới núi lớp khác) kết hợp với từ “hựu” (lại) cho thấy cảnh núi non hiểm trở, trùng điệp cứ nối tiếp nhau chạy ra xa tít tắp mà không có điểm dừng. Vượt qua được dãy núi cao chót vót, trập trùng tưởng chừng đã thoát khổ nào ngờ những thử thách mới lại tiếp tục mở ra và đang chờ ở phía trước.

Vì thế, chữ “mới biết” ở câu thơ đầu bắt nhịp với câu thơ thứ hai tạo nên chiều sâu cảm xúc suy ngẫm của nhà thơ: Sự thấm thía về những chặng đường đã đi qua và những chặng đường gian nan đang tiếp tục đi tới. Đó là cả một hành trình không chỉ đòi hỏi con người có được một sức khỏe dẻo dai mà cao hơn còn cần có một ý chí, một nghị lực bền bỉ, một tinh thần vượt khó phi thường. Và cuối cùng Bác đã nỗ lực vượt lên chính mình để đi tới đỉnh cao chiến thắng:

Vượt qua được biết bao nhiêu là thử thách, vất vả với những chặng đường đi gập ghềnh, uốn khúc quanh co, nỗi nhọc nhằn đã lùi lại phía sau và người đi đường đã leo được lên đỉnh cao chót vót. Biện pháp lặp từ ngữ, nối tiếp vắt dòng ở câu hai và ba qua từ “trùng san” không chỉ cho thấy cảnh núi cao, nối tiếp mà còn như tạo nên những bước chân chắc chắn đặt lên từng bậc thang mà leo tới đỉnh cao muôn trượng. Và khi đó, người đi đường hiện lên thật kì vĩ, hiên ngang, như dang hai tay ra mà làm chủ cả không gian của vũ trụ:

Câu thơ cuối đã phác họa thành công tư thế của con người chiến thắng. Tất cả vạn vật đã bỗng chốc thu nhỏ lại vào trong đôi mắt của người anh hùng. Nỗi nhọc nhằn vất vả vừa qua đã tan biến vào hư vô, thay thế vào đó là niềm vui sướng, hạnh phúc và cả sự đắm chìm hồn người vào trong cảnh vật thiên nhiên. Đó là đỉnh cao của sự chiến thắng, của sự vượt lên chiến thắng chính mình trước những vất vả, gian khó.

“Đi đường” là bài thơ có kết cấu chuẩn mực theo trình tự của thể thơ tứ tuyệt (đề – thực – luận – kết) cô đọng, hàm súc; giọng điệu biến chuyển linh hoạt: hai câu đầu rắn rỏi, chậm rãi, đầy suy ngẫm; hai câu sau phóng khoáng, nhẹ nhàng, thư thái… tất cả cả góp phần diễn tả thành công cảm xúc, suy ngẫm của nhân vật trữ tình trong thơ.

Bài thơ “Đi đường” không đơn giản dừng lại ở việc nói tới chuyện đường đi khó mà hình ảnh núi cao trập trùng còn biểu tượng cho sự khó khăn vất vả trong hành trình cuộc sống và hành trình cách mạng. Người chiến sĩ cách mạng phải trải qua rất nhiều chông gai thử thách nhưng khi đã nếm đủ những trái đắng đó thì sẽ gặt hái được thành công, sẽ đem lại thắng lợi rực rỡ.

Và đường đời cũng thế. Khi con người đã vượt qua thách thức thì sẽ đem lại kết quả xứng đáng, tạo nên những giá trị cao đẹp, bất tử, thiêng liêng. Bài thơ “Đi đường” ngắn gọn mà ý thơ mênh mang, gợi cho người đọc nhiều bài học ý nghĩa triết lí sâu sắc.

Gợi ý cho bạn 🌳 Sơ Đồ Tư Duy Quê Hương Tế Hanh 🌳 8 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là tác phẩm văn học có giá trị lớn, là một tác phẩm quý trong kho tàng văn học Việt Nam. Nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù thể hiện quan niệm sống đúng đắn, trở thành bài học quý cho tất cả mọi người. Bài thơ Đi đường là một dẫn chứng tiêu biểu. Đọc bài thơ Đi đường của Bác ta lại có thêm một bài học quý giá trong đường đời.

Trước hết, hình ảnh con đường trong bài thơ là con đường đi lại. Con đường lên núi thật khó khăn vất vả, nhiều gian nan, khó nhọc. Vượt qua ngọn núi này, phải trèo lên ngọn núi khác cao hơn, núi non trập trùng nối tiếp nhau. Thế nhưng, khi đã đặt chân lên đỉnh núi cao nhất, ta sẽ thấy được mọi thứ ở xung quanh, khi đó mọi khó khăn sẽ trở thành nhỏ bé.

Hình ảnh con đường trong bài thơ chứa đựng một ẩn ý sâu sắc. Con đường ấy chính là cuộc đời. Cuộc đời người có lắm gian nan, vất vả. Nếu có quyết tâm và lòng kiên trì vượt qua thử thách thì nhất định sẽ có được thành quả cao.

Bài thơ nêu ra một chân lý tuy bình thường nhưng rất sâu sắc và không phải ai cũng có thể thực hiện được. Những khó khăn trong cuộc sống xảy ra đòi hỏi con người phải giải quyết. Đó là thước đo cho lòng kiên trì và quyết tâm của mỗi con người. Chỉ khi có sự phấn đấu, rèn luyện thì mới mong đạt được kết quả cuối cùng.

Bác Hồ cũng đã có một số câu thơ nói lên những thử thách trong cuộc sống, qua đó đề cao ý chí quyết tâm của con người:

Bài thơ Đi đường đã cho thấy khí phách và ý chí của Bác Hồ. Quả thật bài thơ Đi đường không còn là chuyến đi riêng của Bác mà là chuyến đi cho tất cả mọi người.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Bài thơ “Đi đường” là đứa con tinh thần quý báu của Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Có thể nói thi phẩm ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt: khi Bác bôn ba và bị bắt giam bên Trung Quốc, bằng chính những trải nghiệm của mình, Bác viết tập thơ “Ngục trung nhật kí” và “Đi đường” là một trong số đó. Bài thơ sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được dịch ra thể lục bát:

Từ câu thơ đầu tiên, ta đã thấy rõ cách biểu đạt cùng lối văn giản dị của Bác Hồ:”Đi đường mới biết gian lao”. “Đi đường” nghe có vẻ bình thường nhưng quả thực khi trong hoàn cảnh tay chân bị gông cùm xiềng xích ta mới thực sự hiểu “đi đường” là bị giải đi đường, là đi đày.

Như thế, câu đầu trong bài “Đi đường” không chỉ là sự đúc kết kinh nghiệm trong một cuộc đi đường, mà còn chứa đựng một thái độ đánh giá, nhận thức được suy nghĩ suốt chặng đường bị tù đày và cả trên con đường giải phóng, tìm tự do cho dân tộc. Đến với câu thứ hai cảnh thiên nhiên xuất hiện:”Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”.

Từng lớp núi cao xen nhau, trải dài nối tiếp mà Bác phải đi qua trên đường giải lao. Núi diễn ra những khó khăn và gian lao khắc khổ mà Bác phải đối mặt. Phía trước là núi phía sau lưng cũng là núi, trập trùng những khó khăn, dường như chúng dài vô tận, cũng lẽ thế mà nỗi khổ cũng kéo dài triền miên không biết bao giờ mới chấm dứt.

Câu thơ thứ hai như diễn giải ý của câu thơ thứ nhất. Đường đi đâu phải dễ mà toàn là núi cao trắc trở cản bước người tù đeo trên vai là những xiềng xích. Đến hai câu cuối, cảnh thiên nhiên lại được Bác miêu tả rõ rệt hơn:

Những dãy núi cao không chỉ trải dài mà còn “lên đến tận cùng” cũng chính là lúc người tù gặp tột cùng những khó khăn. Con người giữa thiên nhiên vũ trụ trở nên nhỏ bé. Tuy vậy nhưng con người có ý chí có quyết tâm rốt cuộc cũng leo đến tận đỉnh núi sau muôn vàn những dốc cao dốc thấp.

Người đi đường tưởng chừng tản bộ ngắm núi nhưng thật sự phải đối mặt muôn vàn khó khăn, tuy vậy, người tù vẫn làm chủ được thiên nhiên. Lúc ấy người ta thu vào tầm mắt tất cả cảnh vật xung quanh, trong câu thơ có niềm vui khôn xiết của một con người đã vượt qua tất thảy khó khăn, khổ ải để có thể tận hưởng được cảnh nước non mây trời, cảnh giang sơn xã tắc trên đỉnh cao, đó là sự chiến thắng.

Bài thơ Đi Đường của vị cha già kính yêu của dân tộc không còn là một bài thơ miêu tả cảnh thông thường mà nó còn khắc họa hình ảnh người đi đường, với những nét phác họa rất giản dị mà lãng mạn vô cùng. Tạo cho bài thơ một sức cuốn hút riêng biệt.

Ngoài phân tích bài thơ Đi đường, tham khảo ☀️ Phân Tích Vào Nhà Ngục Quảng Đông Cảm Tác ☀️ 10 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất

Bằng nét bút tài hoa của người nghệ sĩ, Bác đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và trên cái nền hoành tráng đó, nổi bật lên tư thế hiên ngang của người chiến sĩ với quyết tâm vượt khó và tinh thần lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng:

Dịch ra thơ tiếng Việt:

Nguyên tác bài thơ bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ, bốn câu). Sự hàm súc, cô đọng của ngôn từ cùng niêm luật nghiêm ngặt của thơ Đường không bó buộc nổi tứ thơ phóng khoáng và cảm xúc dạt dào của thi nhân. Bản dịch ra tiếng Việt theo thể lục bát tuy có làm mềm đi đôi chút cái âm điệu rắn chắc, khỏe khoắn vốn có của nguyên tắc nhưng vẫn thể hiện được nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bài thơ.

Câu mở đầu là nhận xét chung của Bác về chuyện đi đường:

Đây không phải là nhận xét chủ quan chỉ sau một vài chuyến đi bình thường mà là sự đúc kết từ hiện thực của hành trình vất vả, hiểm nguy mà Bác đã phải trải qua. Trong thời gian mười bốn tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trái phép, Bác Hồ thường xuyên bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác khắp mười ba huyện của tỉnh Quảng Tây.

Tay bị cùm, chân bị xích, đi trong sương gió lạnh buốt thấu xương hay trong nắng trưa đổ lửa. Vượt dốc, băng đèo, lội suối với những khó khăn thử thách nhiều lúc tưởng như quá sức chịu đựng của con người. Từ thực tế đó, tác giả khái quát thành chuyện đi đường.

Câu thơ thứ hai cụ thể hóa những gian lao trên đường đi thành hình ảnh:

Giữa khung cảnh thiên nhiên chỉ toàn là núi cao nối tiếp núi cao, con người vốn nhỏ bé, yếu ớt lại càng thêm nhỏ bé, yếu ớt. Đường xa, dặm thẳm, vực sâu, dốc đứng biết bao trở ngại, thách thức dễ làm cho con người chán nản, ngã lòng. Bởi vừa vượt qua mấy đỉnh núi cao, sức tinh thần, vật chất đã vơi, con người tưởng đã thoát nạn, ngờ đâu lại núi cao trập trùng chặn đứng trước mặt. Trong câu thơ chữ Hán có chữ hựu ác nghiệt, lời dịch nhân cái ác nghiệt ấy lên gấp đôi: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.

Gian lao kể sao cho xiết! Cấu trúc khép kín ở câu thơ chữ Hán (Trùng san chi ngoại hựu trùng san), chuyển sang kết cấu trùng lặp tăng tiến, vế sau nặng trĩu thêm bởi từ trập trùng ở cuối, cấu trúc khép kín và trùng lặp tăng tiến ấy dường như đẩy con người vào cái thế bị hãm chặt giữa ba bề bốn bên là rừng núi, không thoát ra được, chỉ có kiệt sức, nhụt chí, buông xuôi.

Nhưng đối với Bác thì hoàn toàn ngược lại:

Giữa vòng vây núi non trập trùng, chất ngất, hoang vu đó nổi lên điểm sáng, điểm động là con người với vẻ ngoài tuy nhỏ bé, yếu ớt nhưng bên trong lại là một nghị lực, sức mạnh phi thường.

Câu thơ trước kết thúc bằng hình ảnh trùng san, câu thơ sau mở đầu cũng bằng hình ảnh ấy. Trong thơ dịch không liền như thế nhưng cũng lặp cụm từ được núi cao… núi cao… Âm điệu ấy nâng con người lên cái thế tưởng như bình thường nhưng thực ra lại rất hào hùng. Đạp lên đỉnh núi cao này bước sang đỉnh núi cao kia như đi trên bậc thang, cứ thế từ tốn lên đến đỉnh cao chót vót.

Câu thơ chữ Hán dừng lại ở âm thanh chắc nịch của chữ hậu, tạo nên âm hưởng rắn rỏi, mạnh mẽ. Câu thơ dịch có âm điệu dàn trải như tiếng thở phào sung sướng, nhẹ nhõm: Núi cao lên đến tận cùng.

Đến đây thì mọi gian lao, vất vả đã khép lại; kết quả, phần thưởng xứng đáng mở ra. Lúc trước là mắt chạm vào vách núi cao thẳng đứng, chỉ toàn đá và cây; nay thì mắt nhìn bốn phương, đâu đâu cũng thấy muôn trùng nước non (vạn lí dư đổ). Leo lên đến tận cùng, đứng trên đỉnh núi cao nhất (cao phong), phóng tầm mắt ra xa, không những tầm nhìn mở rộng mà cả trí óc, tấm lòng, cuộc đời cũng mở rộng. Con người đã đến đích sau cuộc hành trình muôn vàn gian khổ.

Âm hưởng câu thơ cuối ngân vang thể hiện niềm lạc quan vô hạn trước tương lai tươi đẹp. Cảnh muôn trùng nước non giờ đây đã thu gọn trong tầm mắt Bác. Bài thơ kết thúc ở niềm vui, niềm kiêu hãnh to lớn đó.

Vậy thì có phải bài thơ này chỉ đơn giản nói đến chuyện đi đường? Đi đường không phải chỉ có gian nan vì núi cao trập trùng mà còn có bao khó khăn nguy hiểm khác. Hình ảnh núi cao trập trùng tượng trưng cho vô vàn khó khăn, nguy hiểm mà con người thường gặp trong đời. Cho nên đường ở đây không phải là con đường đi trên mặt đất mà nó chính là đường đời, đường cách mạng.

Liệu có mấy ai suốt đời chỉ toàn gặp thuận buồm xuôi gió, thẳng một lèo đến thắng lợi, thành công? Trở ngại, nguy nan là chuyện thường tình. Muốn vượt qua tất cả, con người phải có một ý chí kiên cường, nội lực phi thường cùng một niềm tin không gì lay chuyển nổi. Như vậy mới có thể đạt được chiến thắng vinh quang. Thắng gian lao nguy hiểm và cao hơn nữa là chiến thắng chính mình.

Nếu con đường đó là con đường cách mạng thì chân lí tất yếu nêu trên lại càng sáng tỏ. Cuộc đời phấn đấu, hi sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương chói lọi. Trên con đường cách mạng đầy chông gai, sóng gió, với trí tuệ sáng suốt, ý chí và nghị lực tuyệt vời, Người đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam vượt qua mọi gian lao, thử thách để lên đến đỉnh cao vinh quang của thời đại. Từ chuyện đi đường tưởng như rất đỗi bình thường, người chiến sĩ cộng sản lão thành Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta một bài học nhân sinh thiết thực và bổ ích.

Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Đập Đá Ở Côn Lôn 🔥 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

“Nhật kí trong tù” là một tập thơ độc đáo và đặc sắc của Hồ Chí Minh. Đọc những bài thơ được Bác viết ra trong những tháng ngày gian khổ chốn tù đày nơi biên ải xa xôi ấy, ta mới thêm cảm phục một con người với tâm hồn lớn. Ở Bác Hồ, không chỉ là tình yêu thiên nhiên sâu sắc, lòng yêu nước thương dân vô bờ bến mà còn là một vĩ nhân với ý chí và nghị lực phi thường, tinh thần lạc quan giữa bao gian khó, hiểm nguy. Bài thơ ” Đi đường” của Người tiêu biểu cho tâm hồn lớn ấy.

Mở đầu bài thơ, như một kinh nghiệm đúc rút qua bao hành trình gian khổ, tù nhà lao này qua nhà lao khác bằng đôi chân chính mình, Bác thấm thía được rằng: Cuộc hành trình ấy không phải là dễ dàng, đơn giản mà chứa đựng những gian lao, khó nhọc. Đường dài từ núi này qua núi nọ, núi rừng liên tiếp dốc cao, khiến người tù nhân không khỏi không có những phút mệt mỏi.

Những dãy núi cứ liên tiếp chạy dài như thách thức từng bước chân, thách thức ý chí, nghị lực người tù cách mạng. Một câu thơ tả thực để thấy được chặng đường đầy những khó khăn, hiểm trở. Vượt qua được dãy núi cao nhất cũng là lúc tới đỉnh. Những chặng đường kia Người đi đã vượt qua tất thảy để chạm đến ngọn núi cuối cùng. Lúc này đây, núi non hùng vĩ, đất trời bao la, non sông rộng lớn như thu vào tầm mắt.

Sau những bước chân nặng nề vượt núi vượt ngàn, người tù nhân giờ đây dường như đang đứng trong một tâm thế vô cùng thoải mái, ung dung tận hưởng vẻ đẹp của non sông mình. Một vẻ đẹp “muôn trùng” mênh mông, còn mãi với thời gian. Bao gian nan được xua tan đi mà thay vào đó là niềm sung sướng khôn xiết khi ngắm và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên.

Song, bài thơ không chỉ dừng lại ở tầng ý nghĩa này. Nó còn như một khúc ngân về lẽ sống cuộc đời, về con đường cách mạng hướng đến độc lập tự do cho đất nước. Con đường cách mạng có muôn vàn khó khăn đòi hỏi mỗi người cần có bản lĩnh để vượt qua. Những khó khăn đến từ nhiều yếu tố, nguyên nhân, sống không thể khiến ta chùn chân, lùi bước, cần nhìn nhận một cách điềm tĩnh dùng ý chí để vượt qua, hướng đến một tương lai tốt đẹp cho dân tộc.

Bởi vậy, khi cách mạng được thắng lợi, đất nước giải phóng cũng là lúc nhân dân được yên vui, núi sông thanh bình. Con đường cách mạng không phải một sớm một chiều, đường đi rất nhiều những vật cản, trở ngại của bọn xâm lược, kẻ thù tàn ác, người cách mạng phải nỗ lực, vững chí để hoàn thành nhiệm vụ, mang thắng lợi rực rỡ cho muôn dân. Đồng thời, qua bài thơ, ta học được bài học về lẽ sống.

Trên đường đời, đầy rẫy những chông gai, những hòn sỏi, tảng đá bên đường buộc ta phải vượt qua. Thành công chỉ đến với những người biết nỗ lực, xem khó khăn như một lẽ tự nhiên của đời sống. Khi vượt qua được nó, ta sẽ nhận về lại những thành quả tốt đẹp hơn. Hãy tin tưởng vào chính mình, hãy giữ vững tinh thần lạc quan nhất cho mình, hướng về những điều đẹp đẽ trong cuộc sống.

Đọc bài thơ ta thấy thêm kính yêu và trân trọng Bác hơn. Những vần thơ viết ra thấm đẫm những cảm xúc, chứa chan ý chí và niềm lạc quan. Bác từng nói:”Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”, phải chăng, qua bài thơ, Bác đã gửi đến chúng ta những thông điệp sống tích cực mà còn mãi giá trị qua bao tháng năm của thời gian.

Tiếp theo phân tích bài thơ Đi đường, đón đọc 🌳 Phân Tích Muốn Làm Thằng Cuội 🌳 15 Bài Văn Hay Nhất

Bác Hồ từng tự sự: “Ngâm thơ ta vốn không ham / Nhưng mà trong ngục biết làm sao đây?”. Và bởi thế, ra đời trong những năm tháng Bác bị giam cầm, tập thơ “Nhật kí trong tù” từng được ví như một đoá hoa mà vô tình văn học Việt Nam nhặt được bên đường.

Toát lên từ tập thơ là một tinh thần “thép” rắn rỏi, lạc quan: “Từ những bài thơ viết trong hoàn cảnh nhà tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo và mục nát toát ra một phong thái ung dung, một khí phách hào hùng, một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan cách mạng không gì lay chuyển nổi”. Bài thơ “Đi đường” là một trong những số ấy.

Bài thơ được dịch là:

Bài thơ ra đời trong những năm tháng Bác Hồ bị bắt giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bác bị chúng giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Đường chuyển lao không những dài dặc mà còn vô cùng gian lao, phải trải qua núi non trùng diệp và những vực thẳm hun hút hiểm sâu. Nhưng dẫu vậy, từ trong khổ đau vẫn bừng lên ý chí “thép” mang đậm phong cách Hồ Chí Minh. Bài thơ “Đi đường” – “Tẩu lộ” đã thể hiện rõ điều đó.

“Đi đường mới biết gian lao”. Câu thơ là một nhận định nhưng đồng thời cũng là một chân lí: Có đi đường mới biết những sự vất vả, khó khăn của việc đi đường. Vậy những điều “nan”, “gian lao” ấy là gì?

“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Đường chuyển lao là những con đường đi qua các vùng núi hiểm trở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tầng tầng lớp lớp những ngọn núi tiếp nối nhau chạy mãi đến chân trời. Hết ngọn núi này lại đến ngọn núi khác. Vậy nên mới có hình ảnh “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Trong nguyên văn chữ Hán là “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”.

“Trùng san” có nghĩa là trùng trùng lớp lớp núi cao; “hựu” là “lại”, câu thơ mang ý nghĩa: trùng trùng núi cao bên ngoài lại có núi cao trùng trùng. Một câu thơ mà có tới hai chữ “trùng san”, huống chi lại có chữ “hựu”, bởi vậy, câu thơ nguyên gốc gợi nên hình ảnh những đỉnh núi nhọn hoắt cao vút trời xanh trập trùng chạy mãi đến chân trời. Con đường ấy, mới chỉ nhìn thôi đã thấy đáng sợ.

Nếu tù nhân là một người tù bình thường, ắt hẳn họ đã bị nỗi sợ hãi làm cho yếu mềm, nhụt chí. Nhưng người tù ấy lại là một người cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Và bởi vậy, hai câu thơ cuối bài đã thực sự thăng hoa:

Hai câu thơ được dịch khá sát là:

Sau những vất vả, nhọc nhằn của con đường leo núi, khi đã lên đến tận đỉnh người tù cách mạng được chứng kiến một hình ảnh vô cùng hùng vĩ “muôn trùng nước non”. Theo tâm lí thông thường, trên con đường gian lao trập trùng đồi núi, khi lên đến đỉnh, con người dễ lo lắng, mệt mỏi khi nghĩ đến con đường xuống núi dốc thẳm cheo leo và những quả núi ngút ngàn khác. Nhưng Hồ Chí Minh thì ngược lại.

Điều Người cảm nhận là niềm tự hào, sung sướng khi được đứng từ trên đỉnh cao chiêm ngưỡng sự hùng vĩ bao la của nước non, vũ trụ. Hình ảnh “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” thật hào sảng. Nó gợi đến hình ảnh bé nhỏ của con người đang đối diện trước cái mênh mông, trập trùng của giang san. Con người ấy không choáng ngợp trước sự kì vĩ của đất trời mà rất vui sướng, bồi hồi như lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy gương mặt của nước non. Chính cảm quan ấy đã nâng vị thế con người sánh ngang tầm non nước.

Đứng trước một sự thật khách quan, mỗi con người có một cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy phụ thuộc vào thế giới quan và bản lĩnh của con người, ở Hồ Chí Minh Người đã có những cảm nhận lạc quan, tươi sáng về cuộc đời. Người không bị cái nhọc nhằn của thể xác lấn át đi ước mơ, khát vọng và lí tưởng mà ngược lại, đã vượt qua gian lao để khẳng định ý chí bền bỉ, sắt đá và niềm lạc quan, tin tưởng vào cách mạng của bản thân mình. Đó là tinh thần thép là vẻ đẹp tâm hồn Bác.

Đi đường là một bài thơ hay có nhiều lớp nghĩa, nghĩa đen, nghĩa bóng. Bài thơ có ý nghĩa đúc kết về kinh nghiệm, kinh nghiệm đi đường, kinh nghiệm đầu tiên của chặng đường cách mạng. Trong mấy câu thơ đầu, thiên nhiên với những vùng núi non hiểm trở như che lấp con người. Nhưng rồi con người đã chủ động vượt qua thử thách và thở thành nhân vật trung tâm của bức tranh.

Đường đời gian khổ, đường cách mạng và đầy chông gai, nhưng quyết tâm vượt khó và theo đuổi đến cùng thì rồi cũng có ngày đi tới thành công, giành được chiến thắng.

Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Bài Nhớ Rừng 🌳 Top 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Bị bắt vì bị tình nghi là gián điệp, những ngày tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, Bác Hồ đã bị giải đi rất nhiều những nhà lao qua nhiều tỉnh thành ở Trung Quốc. Ra đời trong hoàn cảnh như vậy, rất nhiều bài thơ trong tập “Nhật kí trong tù” được lấy cảm hứng từ đề tài đi đường mà “Tẩu lộ” mà một bài thơ như vậy. Mở đầu bài thơ, Người đưa ra một lời triết lí vô cùng giản dị, tự nhiên mà chân xác:

Đúng là chỉ có đi đường mới biết đường gập ghềnh, khó đi, phải là người trực tiếp đi thì mới biết gian lao của nó. Hơn nữa tuyến đường mà Hồ Chủ Tịch đang bị áp giải không hề dễ đi mà vô cùng lắm ổ voi, ổ chuột, Người lại đi chân đất, đầu trần trong tư thế bị trói, bị canh giữ. Một cung đường không hề dễ đi chút nào. Điệp lại từ “tẩu lộ” ở cũng một dòng thơ khiến cho câu thơ in sâu hơn ấn tượng về sự đi đường với người đọc. Những câu tiếp theo, Người đặc tả về sự khó khăn ấy một cách cụ thể:

Đến đây ta hiểu rằng, những con đường mà thi nhân đang phải vượt đâu chỉ là những con đường xấu, gồ ghề mà là đường đồi núi cao, hiểm trở trập trùng không chỉ gian nan mà còn là nguy hiểm cận kề. Từ “trùng” được điệp lại nhiều lần gợi cho ta cảm giác về những dãy núi cao trập trùng, hết dãy này đến dãy khác, cứ đi mãi, đi mãi mà cảm giác không sao đi hết được vì cứ vượt qua được dãy núi này thì lại xuất hiện một dãy núi khác đòi hỏi ta lại phải vượt qua.

Nếu ở câu trên, núi được mở ra theo chiều rộng thì câu dưới núi mở ra theo chiều cao. Núi không chỉ nhiều, trùng điệp giăng khắp nơi mà còn cao, dựng đứng lên đến tận cùng vô cùng khó để vượt qua. Trong hoàn cảnh của người tù cách mạng bấy giờ thì đúng là nỗi khó khăn tăng lên gấp bội.

Ba câu trên đều nói tới khó khăn vất vả của việc đi đường, có phải ta sẽ lầm hiểu rằng nhà thơ đang mệt mỏi, kiệt sức, thoái chí nản lòng trên con đường gian nan cực khổ ấy nhưng nếu là vậy thì đó đã không phải là phong thái của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Mọi ánh sáng dường như hội tụ hết chính là ở câu thơ cuối bài:

Tuy rằng ở ba câu thơ trên, ta cảm nhận được biết bao gian nan khó nhọc của việc đi đường, xuống đến câu dưới, hình như mọi gian nan, hiểm trở tan biến đâu hết mà chỉ còn là khung cảnh thiên nhiên đẹp của muôn trùng nước non. Không còn hình bóng của một người tù bị áp giải mà chỉ còn hình ảnh của một du khách đang đứng giữa đất trời, sảng khoái mà tận hưởng thành quả sau khi đã vượt qua tất cả những cung đường khó khăn kia.

Ở ba câu thơ đầu, hình ảnh thiên nhiên bao la rợn ngợp đến đâu thì câu thơ cuối con người không còn nhỏ bé bị thiên nhiên làm cho khiếp sợ mà trở nên cao lớn, hào sảng, hiên ngang vô cùng. Và đây cũng là tinh thần lạc quan, yêu thiên nhiên nơi người chiến sĩ cách mạng vĩ đại không bao giờ mất niềm tin vào cuộc đời.

Cả bài thơ đã gợi ra một triết lí sâu sắc đó là đi đường tuy có gian lao nhưng nếu ta có bản lĩnh vượt qua thì ta sẽ gặt hái được vẻ đẹp cuối con đường. Suy rộng ra, đây là con đường cách mạng, con đường đời, con đường nào cũng nhiều gian nan hiểm trở nhưng khi ta đã vượt qua thì ta sẽ đạt được những thành quả như mong đợi.

Chỉ với bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cô đọng mà gợi ra cả một triết lí sâu sắc, và trên tất cả, ta thấy kính phục biết bao khí chất ngời sáng vĩ đại của Bác Hồ. Chính tinh thần thép ấy đã giúp Bác trở nên rắn rỏi hơn kể cả trong bất kì hoàn cảnh khắc nghiệt nào.

Mời bạn tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Bài Thơ Khi Con Tu Hú 🌳 Những Bài Cảm Nhận Đặc Sắc

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc Việt Nam ta. Người không chỉ là một nhà cách mạng xuất sắc mà còn đồng thời là một thi nhân vô cùng tài ba. Sinh thời, sự nghiệp sáng tác của Người cũng vô cùng đồ sộ, trong đó nổi bật nhất là tập thơ “Nhật kí trong tù”. Tập thơ gồm hai mươi bài thơ, là những tác phẩm được Người hoàn thành trong khi bị giam giữ ở nhà ngục Tưởng Giới Thạch. Trong số đó, “Đi đường” ( Tẩu lộ) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất, ca ngợi hình ảnh của người chiến sĩ Cách mạng trong gian lao.

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là khi Hồ Chí Minh bị bắt bớ, tù đày ở nhà tù Tưởng Giới Thạch và Người buộc phải di chuyển hết từ nhà lao này sang nhà lao khác.

Trong tình thế ấy, khó khăn, vất vả, gian lao đều có thể làm chùn bước chân của người tù nhưng với tấm lòng yêu đời, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, không những không chịu khuất phục, Người còn dùng những lời thơ của mình ghi lại chân thực hoàn cảnh gian khổ đồng thời thôi thúc ý chí của mình. Bác muốn qua đó thể hiện chân dung ý chí bất khuất của một người tù Cách mạng dù trong hoàn cảnh khó khăn, và cũng để nêu lên triết lý muôn đời rằng: Vượt qua hết gian lao thử thách, chắc chắn sẽ đi tới được thắng lợi vẻ vang.

Vẫn là thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt Người ưa thích, Hồ Chí Minh đã vẽ lên bức tranh hiện thực cùng bức tranh tinh thần của mình trong những lần chuyển lao bằng bài thơ “Đi đường”:

Dịch thơ:

Câu đầu của bài thơ mở ra như một lời nhận xét, một lời chiêm nghiệm từ thực tế cuộc sống:

Để rút ra được sự chiêm nghiệm, chân lý này, hẳn Người đã phải trải qua biết bao gian khó, biết bao cung đường trong những lần chuyển trại, chuyển lao. Bao lần bị giặc đày ải từ nhà tù này sang nhà tù khác, điều đó đã khiến Bác có được sự thấu hiểu về nỗi gian lao trong mỗi bước chân. Mỗi lần bước đi, xiềng xích, gông cùm kéo lê bước chân người tù Cách mạng khiến cho Người càng thấy khó nhọc hơn bội phần.

Thấm thía được điều đó, Người đã viết lên câu thơ mở đầu bài thơ “Tẩu lộ” của mình. Đọc lên, chúng ta cảm thấy thật thấm thía biết bao, thấm thía cái gian lao ngấm trong từ câu chữ. Hai từ “tẩu lộ” được lặp lại liên tiếp trong cùng một câu thơ phải chăng đó là sự nhấn mạnh của Bác về những cung đường chuyển lao dài bất tận, khó khăn chồng chất, làm Người suy kiệt cả thể chất lẫn tinh thần.

Chỉ với một câu thơ thất ngôn ngắn ngủi, Hồ Chí Minh đã vẽ lại cho chúng ta hình ảnh của một người tù đang vất vả lê từng bước chân trên chặng đường gập ghềnh trong những lần chuyển lao, những khó khăn, cũng như những kinh nghiệm được đúc rút ra từ những chặng đường dài đó. Và cũng là để nhắn nhủ với chúng ta rằng: Trong cuộc sống, phải bắt tay vào công việc, phải “tẩu lộ” mới thấu hiểu được những mệt mỏi trong công việc ấy.

Câu thơ đầu vang lên đã khiến cho người đọc chúng ta không khỏi bồi hồi, xúc động về những vất vả mà Người đã phải chịu đựng chốn ngục tù ấy. Vậy mà câu thơ thứ hai khi đọc lên, càng khiến chúng ta thêm thấu hiểu những khó khăn ấy khi mà:

Trên bước đường chuyển lao ấy, Bác không chỉ phải “ăn gió tắm sương” mà Người còn phải băng rừng, vượt suối, trải qua bao khó khăn trên bước đường gập ghềnh. Nhưng những vất vả ấy chẳng thấm vào đâu so với những lần vượt đèo vượt núi. Với đôi chân mang gông cùm, Người phải lê chân trèo lên những đỉnh núi cao, không chỉ một mà là hết ngọn núi này đến ngọn núi khác cứ liên tiếp nối nhau trước mắt Người. “Trùng san” (núi cao), từng ngọn cứ liên tiếp “chi ngoại hựu trùng san”.

Điệp từ “trùng san” được lặp lại trong câu, một đứng đầu, một đứng cuối khiến cho chúng ta khi đọc lên có cảm tưởng từng ngọn núi cứ dập dềnh liên tiếp trước mắt, tưởng như là bất tận, liên hồi.

Khách bộ hành thông thường khi đi đã thấy khó nhọc, vậy mà Bác Hồ của chúng ta chân mang xiềng xích, gông cùm trên vai lại phải vượt hết chặng đường gập ghềnh này đến chặng đường gập ghềnh khác, vượt hết núi này tới núi khác, quả thật, gian lao, khó nhọc vô cùng.

Phải chăng những đỉnh núi cao liên tiếp, những gập ghềnh khó nhọc mà Người đang đi cũng là biểu tượng cho những khó khăn mà Cách mạng đang gặp phải? Những khó khăn, thử thách ấy đang đòi hỏi một người Cách mạng có ý chí kiên cường để vượt qua mà mang lại thắng lợi vẻ vang?

Khép lại hai câu thơ đầu, người đọc chúng ta chỉ thấy hiện lên trước mắt mình những con đường dài gập ghềnh, những đỉnh núi nhấp nhô, nối nhau dài bất tận. Con đường của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch thật khó khăn, vất vả đến khốn cùng. Phải chăng, những khó khăn ấy mà Bác nói đến, những đỉnh núi cao, những gian lao khi đi đường là những thử thách của cuộc đời dành cho ý chí của người tù nhân Cách mạng giàu lòng yêu nước trước thành công cuối cùng?

Bước sang hai câu thơ cuối, vẫn là hình ảnh của núi non nhưng câu thơ lại mang một sắc thái thật khác lạ. Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên, người ta thấy trong đó là những khó khăn, gian lao, là những chiêm nghiệm về cuộc đời của người tù Cách mạng Hồ Chí Minh, thì ở trong câu thơ này, chúng ta lại nhận ra được một hương vị thật khác:

Dịch thơ:

Hình ảnh núi non vẫn hiện lên sừng sững, nhưng lại chẳng thể ngăn bước chân của người Cách mạng với ý chí quyết tâm kiên cường, quyết tâm chinh phục cả đỉnh núi cao nhất. Nhịp thơ ở đây nghe thật nhanh, thật mạnh, thoảng trong đó là tiếng thở thật dồn dập của người tù khi đang cố bước thật nhanh lên đỉnh núi. Sự khẩn trương ấy lan ra toàn câu thơ, mỗi từ lại càng thêm mạnh, thêm khẩn trương, dồn dập hơn nữa:

Đọc câu thơ đến cuối, người ta thấy phảng phất trong nhịp thơ là niềm hạnh phúc, xốn xang khi đã chinh phục được “tận cùng” của “núi cao”. Để đến câu thơ cuối cùng, người tù ấy thở một cái thật mạnh, sảng khoái vô cùng:

Ở câu thơ thứ ba, người đọc dường như thấy tiếng thở dồn dập của Người, khi ấy liệu ai trong chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi liệu Người đã đến được đỉnh núi hay chưa, Người đã bước được đến “tận cùng” hay chưa, …? Để đến khi câu thơ thứ tư thốt ra nhẹ nhõm như một tiếng thở, thì người đọc chúng ta cũng nhẹ nhàng, khoan khoái tới lạ thường. Lên được tận cao “tận cùng” của đỉnh núi, mở ra trước tầm mắt của chúng ta là cả một không gian to lớn, rộng mênh mông, bát ngát của “muôn trùng nước non”.

Nếu trong hai câu thơ đầu, đọc thơ, người đọc như cảm thấy sự vất vả, gian khó, một tâm trạng mang nặng suy tư của Hồ Chí Minh thì hai câu cuối, tình thế đã thay đổi thật nhanh chóng, tâm trạng cũng mang một màu vui vẻ khác thường. Từ tư thế của một người tù đang trong cảnh đày đọa, Hồ Chí Minh bỗng vụt đứng lên trong tư thế của một người tự do, Người chẳng còn mang xiềng xích, cũng chẳng bị đọa đày, tất cả chỉ là cảm giác vui sướng, ung dung trước không gian mênh mông, bát ngát của đất trời.

Và từ trong sâu thẳm tâm hồn của Người đang reo vui thật rộn rã. Câu thơ thứ tư ấy thốt ra là một tiếng reo vui, mừng rỡ vô cùng. Sau chặng đường dài vất vả là thế, cuối cùng người tù Cách mạng ấy cũng đã chạm đến được đỉnh của thiên nhiên, được ngắm nhìn thiên nhiên mà Người trân trọng, yêu quý vô vàn.

Đây chắc hẳn cũng là lời gửi gắm sâu thẳm của Người trên con đường Cách mạng rằng: Con đường Cách mạng chắc chắn sẽ khó khăn, núi cao sẽ liên tiếp, trở ngại, thách thức, thế nhưng khi bước chân được đến đỉnh của nó, chúng ta chắc chắn sẽ thu được thành công thật vẻ vang, thật xứng đáng. Và để làm được điều đó, chúng ta phải giữ được ý chí, được niềm tin thật kiên định, tin tưởng vào đường lối Cách mạng của Đảng.

Bài thơ “Tẩu lộ” ( Đi đường) khép lại, thế nhưng đọng lại trong tâm trí chúng ta là hình ảnh của một người tù Cách mạng kiên định dù trong gian khó vẫn giữ một ý chí quật cường. Bài thơ vừa là lời bày tỏ những gian khổ của Bác trong những lần chuyển lao ở nhà tù Tưởng Giới Thạch vừa là một chân lý Bác muốn nêu ra sau những lần chiêm nghiệm của mình.

Đường đi khó khăn, gập ghềnh, cũng như cuộc sống, như con đường Cách mạng vậy, nhưng chỉ cần chúng ta có quyết tâm, có ý chí mạnh mẽ thì chắc chắn thắng lợi vẻ vang sẽ đến và ngày đó chẳng còn xa nữa.

Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta cảm nhận được những khó khăn trong thời gian Người bị giam cầm nơi đất khách, cũng là lời ca ngợi ý chí chiến đấu kiên cường của Hồ Chí Minh. Chắc hẳn, mãi đến sau này, bài thơ vẫn sẽ mãi là một trong những tuyệt tác của Người – Hồ Chí Minh: Người chiến sĩ Cách mạng – nhà thi nhân xuất sắc của dân tộc ta.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Tức Nước Vỡ Bờ 🍀 13 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

M.Goóc-ki từng nói “Kì lạ thay con người!”. Con người đến với cuộc đời và khẳng định sự tồn tại của mình bằng chính ý chí, nghị lực và một trái tim bao la. Đường đời với biết bao thử thách chính là lửa thử vàng để vàng càng sáng. Trong tập thơ Nhật kí trong tù, ta luôn bắt gặp một con người như thế.

Bài thơ Đi đường cũng giống như những bài thơ chuyển lao khác như: Đi Nam Ninh, Chiều tối, Giải đi sớm,… không chỉ diễn tả nỗi gian nan của người tù trên bước đường chuyển lao mà hơn hết thể hiện một thái độ mang tính chất triết lí trước những chặng đường đời đầy thử thách và phong thái của một con người có tầm vóc cao cả.

Câu thơ đầu tiên Bác dành để nói về việc đi đường. Nhưng không phải là lời kêu than của một người đã trải qua biết bao chặng đường chuyển lao mà nó như một lời khẳng định, suy ngẫm bằng sự trải nghiệm thấm thía của chính người đi đường:

Câu thơ như một triết lí của con người từng trải. Có đi đường, có trải qua những khó khăn vất vả trên những chặng đường mới thấm thía được nỗi gian nan, mới biết gian khổ là gì. Bài học này không có gì là mới lạ nhưng phải bằng chính những thử thách, trải nghiệm của bản thân mới có sự nhận thức sâu sắc được như vậy. Câu thơ giản dị mà chứa đựng cả một chân lí hiển nhiên. “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”.

Điệp từ “trùng san” như mở ra trước mắt người đọc cả một con đường gập ghềnh những núi, càng nhấn mạnh sự trải dài như vô tận, không dứt hết lớp núi này đến lớp núi khác. Con đường đó dường như đối lập với sức người, vắt cạn sức lực của con người. Phải vượt qua con đường như thế mới có thể thấu hiểu được cái chân lí tưởng chừng như giản đơn: “Đi đường mới biết gian lao” mà Bác đã nói ở trong câu thơ đầu.

Hai câu thơ chỉ đơn giản nói chuyện đi đường vất vả, không hề trực tiếp miêu tả hình ảnh người đi đường. Nhưng ta vẫn thấy hình ảnh người đi đường xuất hiện. Con người ở đây không phải xuất hiện trong trạng thái thảnh thơi ngồi ngắm quãng đường với trập trùng những núi, không phải lữ khách du ngoạn để ngắm cảnh non sông, mây trời mà là một người tù đang phải trên đường chuyển lao. Vai đeo gông, chân mang xiềng xích, đói khát phải vượt qua bao đèo cao, dốc sâu, vực thẳm, qua những con đường núi non hiểm trở.

Chữ “hựu” đứng giữa hai câu thơ dịch không chỉ diễn tả sự nối tiếp của núi non mà còn diễn tả sự vất vả của người tù. Chưa hết con đường này thì con đường núi khác đã hiện ra trước mắt, chưa hết khó khăn này thì một khó khăn khác lại ngáng trở phía trước. Thế nhưng, câu thơ không phải là tiếng thở dài, là lời than thở của người đi đường, mà chỉ là chân lí của người chiến sĩ cách mạng đúc rút được trên con đường chuyển lao, trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.

Hai câu thơ tiếp theo làm người đọc sửng sốt. Nếu như hai câu thơ đầu là chân lí, thì hai câu thơ sau bỗng vút lên nhẹ nhàng:

Câu thơ thứ ba tiếp tục tả núi. Không chỉ dừng lại ở việc núi cao rồi lại núi cao trập trùng mà con đường đi đã được đẩy lên đến tột cùng khó khăn, hiểm trở “lên đến tận cùng”. Câu thơ dường như là một sự reo vui của người tù khi đã vượt qua được hàng ngàn núi cao, dốc sâu để lên được tới đỉnh núi cao nhất, tận cùng nhất.

Con người tự nhiên như được tạo một dáng vẻ hiên ngang, ngạo nghễ giữa một vũ trụ bao la như một du khách dạo chơi nhàn tản giữa non nước mây trời. Trong tư thế đó, con người như một “tiên ông đạo cốt”. Những khó khăn của đường đi không thể cầm tù, giam hãm được con người trong những dãy núi. Con người như đang cố gắng vươn lên làm chủ chặng đường của mình.

“Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ cuối là đỉnh điểm của cảm xúc. Tưởng chừng như mọi khó khăn đều lùi xa, chỉ còn lại một con người làm chủ thiên nhiên, đất trời với phong thái ung dung, tự tại đầy lạc quan. Đến đây đất trời và con người như hòa làm một. Bài thơ vút lên trong một niềm cảm hứng lãng mạn.

Đi đường là một bài thơ ngắn nhưng chứa đựng một bài học lớn lao, nói về con đường có thực trong những năm tháng tù đày, chuyển lao hết nhà lao này đến nhà lao khác. Nhưng hơn hết, nó không chỉ đơn giản chỉ là con đường thật với núi non hiểm trở. Đó còn là con đường với biết bao chông gai thử thách.

Những khó khăn đó không thể làm cho con người lùi bước. Bài thơ như một niềm tin sắt đá. Đường đời dù có gian nan, vất vả đến đâu nhưng chỉ cần con người kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm vượt qua cuối cùng sẽ đến đích. Khi đó con người sẽ lên được tới đỉnh cao của vinh quang, trí tuệ và làm chủ được những giá trị đích thực của cuộc sống.

Bài thơ Đi đường – Tẩu lộ không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận hình ảnh Bác vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Và như thế, bài thơ Đi đường cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ Nhật kí trong tù thực sự là một đóa hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam.

Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Trong Lòng Mẹ 🔥 16 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Biết mỗi hành động, đọc mỗi bài thơ của Bác, chúng ta như được thêm vốn sống, tăng thêm nghị lực, lòng kiên nhẫn để vượt qua mọi thử thách gian lao và tin tưởng vững chắc vào kết quả công việc của mình.

Vào mùa thu 1942, từ Pác Bó, Bác Hồ qua Trung Quốc để tìm viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam, và bị chính quyền tỉnh Quảng Tây bấy giờ bắt giam. Suốt một năm sống trong ngục tù, Bác đã viết Nhật kí trong tù, 133 bài thơ được Bác viết bằng Hán văn về nhiều đề tài khác nhau với mục đích là để tự động viên mình, trong đó có bài Đi đường (Tẩu lộ).

Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn tứ tuyệt, nhà thơ Nam Trân dịch ra Việt ngữ bằng thể thơ lục bát. Cũng cần biết thêm là Bác thường mượn những hình ảnh dễ thấy trong cuộc sống làm đề tài để biểu đạt tư tưởng và tình cảm của mình. Ngay ở tựa bài Đi đường cũng đã chứng minh cho nhận xét ấy.

Từ hình ảnh cụ thể và khái quát ấy, nhà thơ Hồ Chí Minh đã viết thành câu khai:

Câu thơ nguyên tác có điệp ngữ “tẩu lộ” (đi đường) để nhấn mạnh, còn câu thơ tiếng Việt thì không. Thế nhưng từ “nan” (khó) trong nguyên tác được dịch bằng từ “gian lao” thì khá tuyệt bởi nó diễn đạt nỗi khó khăn, gian khổ đậm nét hơn. Từ hình ảnh cụ thể ấy, người đọc hiểu rộng ra: mọi công việc, khi bắt tay vào hành động mới thấy những khó khăn đang chờ đợi.

Những khó khăn ở câu khai được nhà thơ diễn đạt rõ hơn ở câu thừa. Nguyên tác viết:

Trùng san chi ngoại hựu trùng san;

Bản dịch viết:

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Nguyên tắc sử dụng điệp ngữ “trùng san – nhiều lớp núi chồng lên nhau” nhấn mạnh về núi non để làm rõ nghĩa cho “tẩu lộ nan – đi đường khó” ở câu khai. Bản dịch tiếng Việt cũng sử dụng điệp ngữ “núi cao”, quan hệ từ “rồi lại”, và cả tính từ láy âm “trập trùng” để cụ thể hóa “gian lao” ở câu khai. Như thế thì câu thơ dịch khá hoàn chỉnh, kể cả chất thơ.

Từ sự việc có thật là lúc ở tù nhà thơ bị giải đi từ nhà lao này sang nhà lao khác ở tỉnh Quảng Tây, một tỉnh có địa hình nhiều rừng núi nhà thơ muốn nhấn mạnh đến những khó khăn không bao giờ dứt trong đời sống của mỗi người. Đường đời bình thường đi đã mệt, đường giành lại độc lập tự do đã bị thực dân tước mất thì khó khăn và nguy hiểm khôn lường.

Lịch sử Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập – tự do cho dân tộc từ thời dựng nước cho tới lúc nhà thơ bị bắt và làm bài thơ này đã chứng minh cụ thể cho sự khó khăn khôn lường ấy.

Biết như thế để tự động viên mình trên đường đi. Lúc nào cũng lạc quan, lúc nào cũng cố gắng tiến bước để đạt được mục tiêu cuối cùng như hình ảnh trong hai câu chuyển và hợp trong nguyên tác:

Và bản dịch:

Cả nguyên tác lẫn bản dịch đều dùng phép đảo ngữ để nhấn mạnh “trùng san – núi cao”. Khó khăn nào cũng cố gắng vượt qua, núi cao nào cũng leo tới đỉnh rồi lại tiếp bước. Càng vượt được nhiều núi cao, trong thực tế, càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trèo đèo, lội suối, vượt qua những vực sâu… nguy hiểm.

Hiểu rộng ra trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể cả việc học hành, càng vượt qua nhiều khó khăn càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong giải quyết công việc. Lúc ấy ta sẽ vững tin khi đối diện với một khó khăn mới khác trên bước đường đời.

Trong cuộc đời hoạt động, Bác đã đến nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người. Mỗi nơi, mỗi người đều giúp Bác thêm kiến thức, kinh nghiệm. Khi đã vượt qua tất cả những ngọn núi thấp để đến đỉnh ngọn cao nhất: vượt qua khó khăn lớn lao nhất thì đạt đến thành công. Hình ảnh kỳ vĩ: con người với thân hình nhỏ bé đứng trên đỉnh cao của ngọn núi vĩ đại: một bức tranh thật hào hùng; thành công ấy thật vinh quang. Vượt qua khó khăn lớn nhất sẽ thấy rõ đường đời cái gì là trắc trở, cái gì là hạnh phúc, bình yên.

Muốn thế, cần phải có tâm và trí

Ngày trước, Nguyễn Bá Học cũng đã từng mượn hình ảnh đi đường để nhấn mạnh vai trò nghị lực của con người rằng: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông…”. Rồi cụ Phan Bội Châu cũng đã từng nhắc nhở: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,/ Anh hùng hào kiệt có hơn ai” thì nay lại có thêm Hồ Chí Minh. Mang nội dung giáo dục tư tưởng chính trị nhưng không khô khan bởi biết mượn hình ảnh sự việc để bộc lộ tâm tư của mình. Đúng là thơ của một danh nhân văn hóa của cả thế giới.

Thế hệ của Bác, đàn em của Bác đã học tập tinh thần ấy trong hai cuộc chiến chống thực dân và đế quốc. Còn các thế hệ sau thì nhờ học bài thơ mà họ thấy đường đời khó để bình tĩnh chuẩn bị hành trang mà vượt qua: tri thức là phương tiện để “lên đến tận cùng”, vượt nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu.

Có thể bạn sẽ thích ☀️ Phân Tích Tôi Đi Học ☀️ 15 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Bài thơ “Đi đường” có tựa đề là một cụm từ, chỉ một hệ thống. Bài thơ, do vậy có một ý nghĩa riêng, ngoài việc diễn tả cảm xúc trước cảnh núi non điệp trùng, đất trời cao rộng, hùng vĩ, nó còn thể hiện tư thế chủ động của một nhà thơ – chiến sĩ. Bài thơ sáng tác theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được dịch ra thể lục bát:

Mở đầu là một câu thơ giản dị gần như một lời nói thường:

“Đi đường mới biết gian lao”.

“Đi đường”, hai tiếng bình dị thế thôi nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa. Trước hết là nghĩa cụ thể của nó. Nói “đi đường” thực chất là bị giải đi đường, là đi đày. Bác tuy không kể, không tả, nhưng chúng ta, những người đọc thơ Bác hôm nay, không thể không đặt bài thơ trong khung cảnh Bác bị giải đi triền miên giữa cảnh đói rét thiếu thốn, giữa cảnh nắng đội mưa dầm, giày dép tả tơi, 53 cây số một ngày, tay bị trói, cổ mang vòng xích. Vậy mà, câu thơ nói đi nói lại dường như chỉ là một nhận xét, một đúc kết bình thường.

Từ “mới biết” nghe nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng chất chứa ở bên trong biết bao sóng gió cuộc đời, bao nhiêu suy nghĩ của người trong cuộc. Như thế, câu đầu trong bài “Đi đường” không chỉ là sự đúc kết trong một cuộc đi đường cụ thể, mà còn bao hàm một thái độ đánh giá, nhận thức được suy nghĩ trong suốt cả chặng đường dài trên bước đường đời nói chung, trên bước đường cách mạng nói riêng. Câu thơ do vậy vừa mang nội dung cụ thể, vừa mang nội dung khái quát.

Đằng sau câu thơ, ta bắt gặp một tâm hồn lớn, cao khiết, đẹp đẽ, một trí tuệ mẫn cảm của bậc chí sĩ đang đối diện, chịu đựng những gian lao khủng khiếp nhưng đã biết vượt lên gian lao bằng thái độ làm chủ, bằng phong thái ung dung bình tĩnh, với cái nhìn minh mẫn, sáng suốt mà khiêm tốn.

Câu thơ thứ hai:

“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”.

Trước hết, đó là một câu thơ tả thực về cảnh những lớp núi điệp trùng mà Bác phải vượt qua. Có người cho đây là những hình ảnh cụ thể hóa các gian lao trong câu thơ đầu, cũng có thể là như thế. Nhưng như trên đã phân tích, câu đầu trong bài thơ không phải là một cảm hứng đầu mà là cảm hứng kết luận. Hơn nữa, âm hưởng của câu thơ gợi cho người đọc về cái gian lao thì ít mà mở ra một không gian bát ngát, điệp trùng, đẹp đẽ, hùng vĩ nhiều hơn.

Chẳng thấy đâu đầy ải xích xiềng, chỉ thấy một trái tim tự do đang chiêm ngưỡng, đắm say thưởng ngoạn thiên nhiên của nhà nghệ sĩ. Điều này thật khó phân tích, lí giải bằng lí luận chữ nghĩa. Từ tâm hồn nó đến thẳng tâm hồn. Thưởng thức thơ Bác chẳng khác nào thưởng thức một bông hoa. Đọc thơ Người, thỉnh thoảng phải dừng lại, nghĩ suy để thưởng thức các sức ngân vang của tâm hồn, tỏa ra từ những lớp chữ nghĩa, màu sắc, âm thanh… bình dị, thanh khiết.

Hai câu cuối:

Cảnh núi non tiếp nối, không dứt, như vẽ ra trước mắt ta khung cảnh những lớp núi điệp trùng, hết lớp này đến lớp khác, trong đó con người, với tư cách là chủ thể của khung cảnh đang vượt lên những lớp núi chất chồng kia, đang đứng ở đỉnh cao ngất với niềm khoan khoái tự hào, thu vào tầm mắt cả một không gian khoáng đạt, cao rộng, cả khung cảnh gấm vóc hùng vĩ của đất nước, non sông.

Câu thơ tả cảnh nhưng không giấu nổi một tiếng reo hạnh phúc ở bên trong, cái niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao chặng đường khổ ải, đã đi và đã đến đích, đang đứng ở đỉnh cao vời vợi. Trong khuôn khổ âm điệu, hình ảnh, vần luật của thơ ca cổ điển, khuôn phép, mực thước, ý thơ lại như có khuynh hướng muốn vượt ra ngoài, muốn vượt lên cái bình thường, để vươn tới cái tầm cao cả.

Những câu thơ ấy mang vẻ đẹp của một thiên nhiên lớn và một tâm hồn lớn. Nó không chỉ diễn tả độ cao vời vợi của khung cảnh núi non cụ thể, nó còn diễn tả chiều cao của tầm nhìn, của ý chí, nghị lực, niềm tin, của lí tưởng cao cả, đẹp đẽ. Quả là khi đã có một lí tưởng cao cả, một bản lĩnh kiên cường, không có đỉnh cao nào mà con người không thể đạt tới. Và lúc bấy giờ còn người sẽ tìm thấy nguồn hạnh phúc vô biên. Cái kết luận ý nghĩa của bài thơ mang lại cho người đọc là như thế.

Tham khảo văn mẫu 🌹 Phân Tích Đánh Nhau Với Cối Xay Gió 🌹 9 Mẫu Hay Nhất

Đi đường là bài thơ nằm trong tập Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Bài thơ được sáng tác trong quá trình Bác di chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác, nhưng ta không nhìn thấy cái vất vả, khó khăn trong từng câu chữ mà thấy được một chân lí, khi trải qua những khó khăn nhất định sẽ đạt được vinh quang. Ý nghĩa sâu sắc tạo nên giá trị của bài thơ chính là ở chỗ đó.

Trong thời gian bị giam giữ ở Trung Quốc, Bác đã phải di chuyển hơn 30 nhà lao khác nhau, khi trèo đèo, lối sống, khi băng rừng vượt sông, nhưng trong con người Bác vẫn ngời lên tinh thần lạc quan. Bài thơ này cùng rất nhiều bài thơ khác nằm trong chùm đề tài tự nhắc nhở, động viên mình vượt qua những thách thức, gian khổ.

Mở đầu bài thơ, Người nói lên nỗi gian lao của kẻ bộ hành:

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan.

Câu thơ nguyên tác chữ tẩu lộ được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào những khó khăn, gian nan trong hành trình đi đường. Những khó khăn ấy được bật lên thành ý thơ thật giản dị, mộc mạc.

Có lẽ trong những năm tháng kháng chiến, đọc câu thơ của Bác ta sẽ cảm nhận đầy đủ và chân thực nhất những khó khăn mà người phải nếm trải nơi đất khách quê người. “Trùng san chi ngoại hựu trùng san” những dãy núi nhấp nhô, liên tiếp hiện ra, như không có điểm bắt đầu và kết thúc, tạo nên những thử thách liên tiếp thách thức sự dẻo dai, kiên gan của người tù cách mạng.

Đi một hành trình dài, không có phương tiện mà chỉ có duy nhất đôi chân liên tục di chuyển, đường đi khó khăn, đầy nguy hiểm đã cho thấy hết những gian lao, khổ ải mà người chiến sĩ cách mạng phải có lòng quyết tâm, ý chí kiên cường để vượt qua. Trải qua những khó khăn, khổ ải đó, ta sẽ thu lại được những gì đẹp đẽ, tình túy nhất:

Nếu như trong hai câu thơ đầu tiên, Bác tập trung làm nổi bật những gian lao, vất vả mà người tù phải đối mặt thì đến câu thơ thứ ba người tù đã chinh phục được đỉnh cao ấy. Trong hành trình chinh phục thử thách thì đây chính là giây phút sung sướng và hạnh phúc nhất của người tù.

Trải qua bao khó khăn, Bác đã được đền đáp xứng đáng đó chính là muôn trùng nước non thu trọn vào tầm mắt. Cả một không gian mênh mông khoáng đạt hiện ra trước mặt người tù, đồng thời mở ra những chiều ý nghĩa sâu sắc: hoạt động cách mạng chắc chắn sẽ gặp nhiều gian lao thử thách, nhưng chỉ cần kiên gan, bền ý chí, không chịu lùi một bước chắc chắn sẽ giành được thắng lợi cuối cùng.

Bằng ngôn ngữ thơ giản dị, cô đọng cùng hai tầng ý nghĩa sâu sắc, Bác đã đem đến những triết lí sâu sắc cho những người đọc. Quá trình hoạt động cách mạng hay con đường đời sẽ vấp phải rất nhiều chông gai, sóng gió bởi vậy chúng ta không được mềm yếu, nản lòng mà phải dũng cảm, kiên cường vượt qua những thách thức đó. Và ánh sáng, niềm vinh quanh chắc chắn đang đợi ta nơi cuối con đường.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Cô Bé Bán Diêm 🌼 12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Hồ Chí Minh – Người không chỉ là một nhà Cách mạng với tư tưởng lớn mà còn là một thi sĩ có nguồn cảm hứng dạt dào. Trong những năm 1940, khi người bị bắt nhốt trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, Người đã viết lên tập Nhật kí trong tù gồm 133 bài thơ. Trong số đó có bài thơ Đi đường, bài thơ được lấy cảm hứng từ một lần chuyển lao của Người. Bài thơ đã xây dựng lên hình ảnh một người đi đường – người tù cách mạng vượt qua mọi gian lao với một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan không gì lay chuyển được.

Bài thơ Đi đường ngắn gọn, giản dị nhưng hàm súc, từ việc đi đường núi gợi ra chân lý ở đời: vượt gian lao chồng chất thì nhất định sẽ đi tới thắng lợi vẻ vang:

Mở đầu bài thơ là một lời tự sự của người tù cách mạng:

“Đi đường mới biết gian lao,”

Hai từ “đi đường” vang lên như một lời kể nhẹ nhàng, tưởng như lời kể của một người du khách nhưng thực chất ở đây lại là hình ảnh của người tù bị áp giải đi trên đường. Hai từ thôi nhưng người ta có thể hình dung được hình ảnh của người đi đường đang bị trói, chân mang xiềng xích, đi triền miên trong đói rét, trong cảnh nắng mưa đội đầu. Có đi thì “mới biết”, mới thấu hiểu được những nỗi cực nhọc trên đường áp giải. Câu thơ nghe thật nhẹ nhàng, ung dung nhưng ảnh chứa trong đó biết bao vất vả, gian lao.

Chỉ một dòng thơ ngắn ngủi nhưng Hồ Chí Minh đã bao quát được cả thái độ đánh giá cũng như sự đúc kết được rút ra từ một cuộc hành trình dài. Và hình ảnh của người đi đường hiện lên trong chúng ta là hình ảnh của một người tù đang trong cuộc chuyển lao đầy vất vả. Thế nhưng, người tù ấy vẫn mang trong mình sự mẫn cảm của bậc chí sĩ, vượt lên trên tất cả gian lao bằng thái độ ung dung, làm chủ.

Để đến câu thơ thứ hai, người ta mới thấy được hết những nỗi vất vả, gian lao mà người tù phải trải qua:

“Trùng san chi ngoại hựu trùng san”

Dịch thơ:

“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”

Trên bước đường đi của người chiến sĩ cách mạng chỉ toàn là núi non điệp trùng. Câu thơ thứ hai đã cụ thể hoá những gian lao mà câu thơ đầu muốn nói. Nó không chỉ gợi ra cho người đọc về một không gian bát ngát, bao la, điệp trùng của thiên nhiên mà còn là sự vất vả, khổ cực của người đi đường. Bác đã dùng hai từ “trùng san – núi cao” trong một câu thơ chỉ để nhấn mạnh sự hiểm trở, trập trùng của đồi núi trên con đường áp giải của Người.

Hơn thế nữa, hai chữ “trùng san” được đặt ở đầu và cuối câu, cùng với chữ “hựu – lại” ở giữa như muốn nói lên sự vất vả, vừa vượt qua được dãy núi này, còn chưa được nghỉ ngơi đã tới một dãy núi khác. Một từ “lại” nhưng mang một sức nặng ghê gớm, đè nặng lên tâm trí của người đi đường. “Trùng san” ở đây là một cảnh đẹp, hùng vĩ, thế nhưng nó cũng là một khó khăn đang “đè” lấy người tù cách mạng.

Người tù cứ đi như thế, hết “núi cao” này đến “núi cao” khác, để rồi đến cuối cùng:

Câu thơ thứ ba là câu thơ chuyển ý của cả bài thơ, một mặt thể hiện sự tiếp diễn của việc đi đường, mặt khác nó lại phát triển theo hướng cao hơn nữa. Chữ “trùng san” ở đầu câu thứ ba điệp cùng hai từ ở câu trước đó đã tạo nên một vòng lặp. Nếu hai câu thơ đầu thể hiện sự chậm rãi, đều đặn như muốn nói lên sự mệt mỏi của người đi đường thì câu thơ thứ ba lại có một sự khẩn trương hơn, xốn xang hơn. Nó như một sự chuẩn bị cho một việc trọng đại.

Đường đi vượt qua bao núi non hùng vĩ, cứ điệp điệp trùng trùng hết dãy núi này tới dãy núi khác như một chuỗi dài bất tận khiến ta nản lòng. Thế nhưng, ở câu thơ cuối cùng, người đi đường hiện lên, không phải trong sự mệt mỏi, mà là trong sự sảng khoái, tự hào, trong vinh quang:

Người tù giờ đây không còn ở trong tư thế bị áp giải mà dường như Người đã trở thành một du khách đang đứng giữa thiên nhiên, đứng trên đỉnh núi cao mà say mê tận hưởng thiên nhiên tươi đẹp. Trải qua bao khó khăn, vượt qua bao dãy núi hiểm trở, giờ đây Người đứng trên đỉnh cao để bao trọn trong tầm mắt tất cả. Ở những câu thơ trước, người đi đường bị rợn ngợp, bị che lấp bởi thiên nhiên thì ở câu thơ cuối này, hình ảnh người đi đường trở nên hiên ngang, cao lớn giữa thiên nhiên, đất trời.

Hình ảnh của người đi đường trong bài thơ Đi đường khiến ta liên tưởng tới con người giữa đường đời. Họ phải đi qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua bao “núi cao trập trùng”, nhưng chỉ cần tinh thần lạc quan, niềm tin vào cuộc đời thì chờ đợi ta sẽ là cả một không gian rộng lớn, là thành quả, vinh quang khiến ta tự hào. Đây cũng là chân lý đối với những con người làm Cách mạng, vượt qua khó khăn, vững tin niềm tin cách mạng thì thắng lợi nhất định về tay nhân dân.

Qua hình ảnh người đi đường trong bài thơ, Hồ Chí Minh muốn khẳng định cho chúng ta một chân lý ở đời: con người trong cuộc sống sẽ gặp vô số khó khăn, thế nhưng khi vượt qua mọi gian lao, vất vả thì nhất định chúng ta sẽ đi tới được thành công, thắng lợi. Đó là lời khuyên, lời dặn cho thế hệ chúng ta, và cả thế hệ mai sau về một tinh thần vững chắc, một ý chí bền bỉ để vượt qua mọi chông gai hướng tới thắng lợi..

Đón đọc tuyển tập 🌠 Phân Tích Chiếc Lá Cuối Cùng 🌠 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Biểu Cảm Về Bài Thơ Cảnh Khuya ❤️10+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Biểu Cảm Về Bài Thơ Cảnh Khuya ❤️10+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Phân Tích Văn Học Về Nỗi Lòng Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Trong Thơ Cảnh Khuya.

👉Chia sẻ đến bạn Bài Thơ Không Ngủ Được Của Bác ❤️ Bài Thơ Trong Tù

Cảnh khuya là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt hay, một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà.

Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc

Cảm nhận của Bác thật tinh tế, nghe suối chảy mà cảm nhận được mức độ xanh trong của dòng nước. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng, khoan nhạt như nhịp điệu của bài hát trữ tình sâu lắng.

Mỗi một vần thơ, mỗi một khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận tinh tế khác nhau. Sau tiếng suối nghe như tiếng hát xa kia là trăng chiến khu. Á

Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ.

Nỗi nhớ nhà lo cho nước nhà làm cho trái tim Bác luôn thổn thức. Bác thức trong đêm khuya trằn trọc băn khoăn không sao ngủ được.

Với Cảnh khuya, hai câu đầu đã dẫn người đọc vào một thế giới thiên nhiên huyền ảo, trong trẻo. Truyền thống “thi trung hữu hoạ”, “thi trung hữu nhạc” của phương Đông, vẻ cô đúc cổ điển của thơ Đường được phát huy qua một tâm hồn nghệ sĩ lớn.

Thì ra cái nguyên nhân chủ yếu khiến “người chưa ngủ” không phải là “cảnh khuya như vẽ” – câu thứ ba chưa phải chứa đựng mối quan hệ nhân quả chính – mà là “nỗi nước nhà”.

Trong loại thơ tứ tuyệt lâu nay, ít có bài nào lại kết thúc tựa một lời giải thích, cắt nghĩa thẳng, rõ như vậy. Phải chăng đó cũng là cái độc đáo của Bác – cái độc đáo của nghệ thuật bắt nguồn từ sự lớn lao của tâm hồn. Nghệ thuật ấy vô cùng chân thực, giản dị, đi thẳng vào lòng người nên cũng là nghệ thuật cao quí, tinh vi nhất.

Xem trọn bộ 👉 15 Mẫu Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Cảnh Khuya

Trong tất cả những bài thơ của Bác Hồ giai đoạn kháng chiến thì em thích nhất là bài “Cảnh khuya”. Mặc dù bài thơ chỉ vỏn vẹn 4 câu thơ, nhưng đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ở núi rừng Việt Bắc, có rừng cây, có trăng sáng, có tiếng suối, và đặc biệt có một người đang ở đó thao thức không ngủ được vì lo lắng cho sự an nguy của nước nhà.

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.

Ở hai câu thơ đầu, Bác đã dùng tâm hồn của một người thi sĩ để vẽ nên bức tranh thiên nhiên đẹp hoàn mỹ. Bức tranh núi rừng hiện ra rất sinh động bởi nó có cả tiếng suối, có trăng, có bóng hoa.

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

“Tiếng suối” được ví von với “tiếng hát xa” gợi cho ta một cảm giác thanh bình. Có lẽ không gian đó yên ắng lắm, mọi người, mọi vật đã chìm vào giấc ngủ, thì Bác mới có thể lắng nghe được tiếng suối từ sau khe núi vọng về. Nhưng dưới ngòi bút và tâm hồn lãng mạn của chủ tịch Hồ Chí Minh, thì nó nghe như tiếng hát, lời hát ngọt ngào, quen thuộc gần gũi như ở quê nhà. Bất chợt Bác nhìn lên bầu trời và nhìn thấy được một cảnh tượng thật đẹp.

Trăng “lồng” cổ thụ, bóng “lồng” hoa

Hình ảnh “trăng” xuất hiện không ít ở trong văn thơ, và ngay trong nhiều sáng tác của Hồ Chủ Tịch thì vẫn đã có bóng dáng của trăng, tuy nhiên ở bài thơ này, trăng hiện lên đẹp biết bao. Ánh trăng sáng luồn qua tầng cây cổ thụ, rồi sau đó chiếu xuống mặt đất trông như những bông hoa. Tâm hồn của Bác thật quá đỗi nên thơ, một hình ảnh mà chúng ta nghĩ rằng nó vô cùng quen thuộc, nhưng dưới ngòi bút của thi sĩ, nó được nâng lên một tầm mới, là vẻ đẹp nghệ thuật.

Vâng, chỉ mới hai câu thơ thôi, nhưng Bác Hồ kính yêu đã vẽ nên một bức tranh thơ mộng hữu tình giữa núi rừng hoang vu của Việt Bắc, điều này vừa cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, tinh thần lạc quan yêu đời của Bác, vừa thể hiện được sự tinh tế, những rung cảm tuyệt vời không phải ai cũng có. Điều đáng nói ở đây là Bác đã dùng những từ ngữ giàu hình ảnh cùng lối gieo vần, chữ như đang tự sự, rất giản đơn, ngắn gọn mà súc tích, ai trong chúng ta đọc lên cũng có thể tưởng tượng ra ngay khung cảnh Tây Bắc lúc đó như thế nào.

Tiếp nối những rung cảm về cảnh vật thiên nhiên, Bác nhìn lại sự tồn tại của mình.

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Không phải một lời biện minh, nhưng hai câu thơ này Bác như đang tự trả lời cho câu hỏi: “Vì sao người chưa ngủ”. Giữa đêm khuya thanh vắng, chỉ còn văng vẳng tiếng suối, có ánh trăng sáng soi, có bóng cây, có “hoa”, nhưng chỉ khi “người chưa ngủ” mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp đầy huyền bí ở nơi rừng núi như thế này được. Bác bộc bạch: “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Đọc câu thơ lên ai nấy đều cảm phục trước một người con vĩ đại của dân tộc, một người tận tâm, hết mực yêu nước thương dân, trong khi mọi vật, mọi người đã nghỉ ngơi thì Bác vẫn đang phải lo lắng, nghĩ suy để đưa ra giải pháp nào tốt nhất cho quân ta giành thắng lợi, đất nước sớm được độc độc lập, tự do.

Con người chiến sĩ hòa quyện với tâm hồn thi sĩ tạo nên một tác phẩm “bất hủ” mà hầu như ai cũng thuộc lòng từng câu từng chữ.

Cảnh khuya không chỉ đẹp vì cảnh, mà nó còn đẹp vì tình, là tình yêu thương mà Bác Hồ dành cho hàng triệu trái tim người dân Việt Nam, là tình yêu dân tộc, yêu quê hương hết thảy. Thiết nghĩ, không biết chỉ một đêm hay biết bao nhiêu đêm Bác thao thức “vì lo nỗi nước nhà”? Càng đọc bài thơ này, em lại càng yêu mến và khâm phục trước tinh thần, nghị lực của Bác Hồ kính yêu.

Chia sẽ bạn 👉 20 Mẫu Kết Bài Cảnh Khuya Hay Nhất

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

        Lối so sánh của Bác thật kì lạ! Tiếng suối vốn được cảm nhận bằng thính giác nhưng nghe tiếng suối Người cảm nhận được độ “trong” của dòng chảy.

Dòng suối ấy hẳn rất ngọt lành, trong mát, đó hẳn cũng là thứ quà riêng mà thiên nhiên núi rừng ban tặng riêng cho những người chiến sĩ trên đường hành quân xa xôi mệt mỏi. Chẳng những vậy, tiếng suối trong như là “trong như tiếng hát xa”.

“Tiếng hát xa” là thứ âm thanh rất đặc biệt. Đó phải là tiếng hát rất cao để có sức lan toả mạnh mẽ, để từ xa con người vẫn có thể cảm nhận được. Đó cũng là tiếng hát vang lên trong thời khắc yên lặng bởi nếu không, nó sẽ bị lẫn vào biết bao âm thanh phức tạp của sự sống, liệu từ xa, con người còn có thể cảm nhận được?

Tặng bạn 👉 20 Đoạn văn mở bài Cảnh Khuya hay nhất

Bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn bởi Bác Hồ ta luôn canh cánh một nỗi lo lớn vì đất nước, bởi vì Người ít khi có giấc ngủ trọn vẹn khi nước nhà chưa được độc lập, tự do.

Và lúc này, khi cả non sông đang bị kẻ thù trở lại giày xéo và cuộc chiến đấu mới bước vào những ngày đầu tiên gian khổ, vị Tư lệnh Hồ Chí Minh cũng hiếm những đêm nghỉ ngơi thanh thản.

Hải Như từng viết “Cả cuộc đời Bác ngủ có yên đâu”. Chúng ta càng hiểu nỗi không yên này khi nhớ rằng bài Cảnh khuya được sáng tác vào năm 1947 – trong thời kì đầu vận nước đứng trước cơn thử thách gian nan lớn.

Giữa rừng trăng khuya vì lo việc nước mà Người bắt gặp vẻ đẹp mĩ lệ của thiên nhiên đất nước; ngược lại nỗi lo việc nước nhà không hề ngăn cản sự thưởng thức cảnh đẹp, lắng nghe tiếng rừng, tiếng suối của Người.

Cảnh khuya đã nêu lên một mẫu mực về sự thống nhất cao độ, tự nhiên giữa lòng yêu thiên nhiên với tình yêu nước của người chiến sĩ- nghệ sĩ Hồ Chí Minh.

Chia sẽ bạn 👉 Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Khuya

Với Bác, yêu thiên nhiên cũng là yêu nước vì vầng trăng sáng, cây cỏ ấy, núi sông này là một phần yêu quí của thiên nhiên đất nước.

Tình yêu nước bao la, ý chí chiến đấu vì nhân dân, Tổ quốc khiến Người nhìn thiên nhiên đất nước thêm giàu thêm đẹp và ngược lại, lòng yêu mến cảnh vật thiên nhiên đất nước là một động cơ thúc đẩy Người thêm lo “nỗi nước nhà”.

Từ đó, dẫn đến sự thống nhất một cách tất yếu giữa tình cảm đối với thiên nhiên và trách nhiệm lịch sử – xã hội, một vẻ đẹp độc đáo của con người cách mạng ở thời đại mới.

Chia sẽ bạn 👉 15 Mẫu Cảm Nhận Bài Thơ Cảnh Khuya

Bài thơ tên đề Cảnh khuya nhưng lại nặng “nỗi nước nhà”, rất đậm tình. Chính cái tình đó tăng thêm không khí thâm trầm, man mác của cảnh.

Chúng ta càng hiểu vì sao ngay lúc mở đầu Cảnh khuya không hoạ vật, vẽ cảnh mà tạo âm – “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” ngân lên như khúc dạo đầu. Trong đêm khuya thanh vắng chốn núi rừng Việt Bắc, cái dễ khiến “người chưa ngủ” cảm nhận và rung động trước tiên là tiếng suối – âm thanh duy nhất trong không gian huyền ảo.

Tiếng gọi của “nỗi nước nhà” luôn thao thức ở lòng Người đã bắt gặp tiếng suối trong như tiếng hát của rừng núi thiên nhiên và hai âm thanh đó hoà hợp, ngân dài, vang sâu suốt cả bài thơ.

Rõ ràng là nhân sinh quan cách mạng đã làm đẹp tình yêu của người chiến sĩ. Cảnh khuya đâu chỉ có chuyện cảnh mà chính là chuyện người. Bài thơ giúp ta khẳng định thêm đặc điểm thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh. Thiên nhiên ấy là biểu hiện đặc biệt của một tầm nhìn, một quan niệm triết lí, nhân sinh tiến bộ và những cảm xúc thẩm mĩ cao đẹp.

Chia sẽ bạn 👉 Tuyển Tập Thơ Hồ Chí Minh Hay Nhất

Hồ Chủ Tịch – vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta – không chỉ là một người hùng, một người chiến sĩ bảo vệ đất nước mà Người còn là một nhà thơ với tâm hồn nghệ sĩ chứa chan cảm xúc, dễ rung động trước cái đẹp. Bài thơ Cảnh khuya được Bác viết trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ của dân tộc ta, giữa hoàn cảnh khốn khó đầy gian nan thử thách, Bác vẫn thể hiện tinh thần ung dung, tự tại và cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ.

Bài thơ chỉ có bốn câu, hai câu thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên trong đêm khuya thanh vắng được nhìn dưới con mắt đầy nghệ thuật của Bác Hồ:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”

Trong đêm khuya nơi núi rừng hoang sơ, hẻo lánh, tất cả mọi vật đều chìm trong tĩnh lặng, Bác chỉ còn nghe thấy âm thanh của tiếng suối róc rách. Dù chỉ có duy nhất một sự vật chuyển động trong bức tranh yên tĩnh ấy, Người vẫn có thể khiến cho nó trở nên thật có hồn. Tiếng suối được so sánh “trong như tiếng hát” làm gợi lên một thứ âm thanh nhẹ nhàng, êm dịu, trong vắt khiến cho con người không khỏi ngạc nhiên, như chìm vào tiếng hát trữ tình ấy. Sự vật thứ hai được Hồ Chủ Tịch miêu tả trong đêm khuya đó chính là ánh trăng. Ánh trăng vốn không phải là hình ảnh xa lạ trong thơ ca. Nhà thơ Nguyễn Duy đã dành cả một bài thơ để nói về ánh trăng:

“Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa”

Nếu trong thơ của Nguyễn Du, vầng trăng xuất hiện với vẻ “trần trụi”, không dấu giếm con người bất cứ điều gì thì đối với Bác, ánh trăng trong đêm khuya được miêu tả thật đẹp “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Hình ảnh thợ gợi liên tưởng thật thú vị, ánh trăng chiếu xuống những tán cây cổ thụ, lồng vào bóng cây, tràn vào hoa. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả thật nên thơ, khiến cho người đọc cũng thấy động lòng trước vẻ đẹp của tự nhiên. Đặc biệt, bác Hồ còn coi trăng là người bạn tri kỉ của mình, cho nên Người khó có thể thờ ơ trước vẻ đẹp của trăng.

Nếu hai câu thơ trước chỉ đơn thuần là tả cảnh thì ở hai câu thơ sau, Bác đã khéo léo đưa vào đó tâm trạng của mình:

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”

Đứng trước cảnh đẹp của thiên nhiên, Bác phải thốt lên rằng đây là một cảnh đẹp hiếm có, đẹp như trong tranh vẽ. Và đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho người thi sĩ vẫn chưa ngủ được. Người thao thức vì thiên nhiên đẹp quá, thơ mộng quá. Nhưng vẫn còn một lí do nữa mà Bác vẫn chưa ngủ được. Đó là nỗi lo gánh vác dân tộc, trách nhiệm đưa đất nước thoát khỏi ách thống trị của thực dân, giải phóng dân tộc. Ta có thể hiểu tại sao nỗi lo trong Người lại lớn đến như vậy, vì Bác đang gánh trên vai một trách nhiệm rất lớn, cả dân tộc đều đang trông đợi vào Người. Hai câu thơ cuối cho thấy nỗi niềm canh cánh đối với đất nước của Bác Hồ, dù thiên nhiên có đẹp đến thế nào, có khiến lòng người xao xuyến ra sao thì Bác vẫn không quên nhiệm vụ của mình đối với đất nước. Có chăng Bác vẫn luôn tự hỏi, rằng bao giờ con dân Việt Nam mới có thể thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống mà không phải lo lắng về sự áp bức, bóc lột của chiến tranh khốc liệt, về nền hòa bình chưa có?

Có thể nói, bài thơ là một bức tranh thiên nhiên hòa hợp giữa cảnh và tình, giữa con người và sự vật. Qua đó, ta hiểu thêm về tâm hồn thơ mộng của Bác cùng với nỗi niềm với quê hương, đất nước sâu sắc của Người.

Chia sẽ đến bạn 👉 Chùm Thơ Lớp 12 Hay Nhất ❤️

Bác Hồ của chúng ta sau những giờ phút vất vả cũng tìm đến trăng để tạm quên đi những vất vả. Biết bao nhiêu công việc bề bộn. Thế nhưng khi đọc bài thơ Cảnh Khuya của Bác, ta vẫn thấy hiên lên một bức tranh thiên nhiên đẹp.

Đọc hai câu thơ này ta cảm nhận được một không gian tĩnh lặng, đó là vào một đêm khuya trong khu rừng của chiến khu Việt Bắc, nơi đang diễn ra một cuộc kháng chiến vô cùng ác liệt của quân và dân ta trong 9 năm chống quân Pháp xâm lược.

Bài thơ giúp ta thấy rõ hơn con người của Bác. Một con người yêu thiên nhiên tha thiết nhưng cũng chính vì yêu thiên nhiên mà luôn lo cho sự nghiệp của đất nước. Đây chính là nỗi lòng, là tâm tình của thi nhân, của vị lãnh tụ.

Từ đây ta nhân thấy Bác là một người luôn biết hài hoà giữa công việc với tình yêu thiên nhiên. Và càng yêu thiên nhiên thì trách nhiệm đối với công việc càng cao. Bởi ta có thể nhận thấy đằng sau hình ảnh người ung dung ngắm trăng. Đó là một nỗi khao khát về một đất nước thanh bình.

Gửi đến bạn cách phát biểu cảm nghĩ về bài thơ cảnh khuya hay và ấn tượng nhất. Giúp đạt điểm cao.

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”

Bài thơ “Cảnh khuya” thể hiện tình yêu thiên nhiên song hành cũng là tình yêu nước sâu đậm của Bác trong một đêm trăng ở núi rừng Việt Bắc

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”

Khi mọi người đã chìm sâu vào giấc ngủ, một màn đêm thanh tĩnh buông xuống khắp khu rừng, nó làm cho tiếng suối dù ở rất xa vẫn theo gió mang tiếng ca êm đềm, trong vắt của mình cho những người yêu vẻ đẹp sáng ngời của đêm trăng cùng thưởng thức. Tiếng suối và ánh trăng, chao ôi hai thứ ấy hòa quyện thì thật là tuyệt vời! Nó khiến cho người đang tham gia chính sự như Bác đã có một cảm nhận tinh tế về tiếng ca này. Tiếng suối dịu êm khoan nhặt như một khúc hát trữ tình sâu lắng. Bác đã khéo léo dùng nghệ thuật lay động tả một khung cảnh yên tĩnh có thể nghe rõ âm vang từ xa vọng lại. Và Người đã so sánh tiếng suối với tiếng hát để nhấn mạnh nét gợi tả mang sức sống và hơi ấm của con người. Sự ví von trên đã làm cho em nhớ lại câu thơ trong tác phẩm “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi từng viết

“Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.”

Mỗi vần thơ, mỗi khung cảnh, âm thanh đều là tiếng suối nhưng được cảm nhận khác nhau ở nhiều khía cạnh. Song tất cả vẫn là một tình yêu thiên nhiên. Câu thơ đã cho ta thấy rằng: Dù là một vị lãnh tụ cách mạng nhưng Bác vẫn mang tâm hồn tràn đầy tình cảm lãng mạn, đẹp đẽ. Cám ơn Bác, ngòi bút tài hoa và tâm hồn yêu thiên nhiên say đắm của Người đã giúp em cảm nhận sự ngọt ngào, du dương của âm thanh suối chảy

“Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

Ánh sáng dịu dàng, thanh khiết từ ánh trăng len lỏi chiếu vào lá và hoa tạo nên vẻ đẹp lấp lánh. Hoa lá nghiêng bóng trên mặt đất tạo nên những bức tranh lấp loá, lúc ẩn lúc hiện. Hoa lá cỏ cây và ánh trăng lồng quyện vào nhau, trăng đan vào cây cổ thụ, trăng tràn vào hoa. Đó như một bức tranh tuyệt vời của đất nước. Bác đã làm mọi sự vật sống động qua nghệ thuật nhân hóa “lồng” để miêu tả đan xen cây lá và ánh trăng. Bác quả là một người đa cảm và có tâm hồn vô cùng phong phú! Trăng trở nên thú vị và lãng mạn trong cảnh khuya sáng ngời, lung linh, huyền ảo. Đọc thơ mà em cứ hình dung cảnh thơ như đang hiện lên mờ ảo trước mắt. Khung cảnh thật thơ mộng kết hợp với nhạc tạo nên một bức tranh đầy sinh động. Vì vẻ đẹp bất tận của mình, trăng là người bạn của các nhà thơ, ta khó có thể hững hờ với vẻ đẹp của trăng

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ”

Đọc đến đây ai cũng nghĩ Bác vẫn còn thức vì trăng, vì sự cuốn hút của thiên nhiên nhưng người không chỉ xúc động trước vẻ đẹp của đất trời mà còn vì

“Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”

Nước nhà đang bị giặc xâm lăng, giày xéo, bao người còn sống trong cơ cực, lầm than. Và để nhấn mạnh nỗi lo của mình, Bác đã điệp vòng “chưa ngủ” như láy lại tâm tư của Bác, một người luôn nặng lòng với quê hương. Hai câu thơ cuối giúp ta thấy rõ hơn con người của Bác. Một con người yêu thiên nhiên tha thiết nhưng cũng chính vì yêu thiên nhiên mà luôn lo cho sự nghiệp của đất nước. Đây chính là nỗi lòng, là tâm tình của vị lãnh tụ. Đồng thời ta cũng đã thấy Bác Hồ của chúng ta dẫu bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian để chiêm ngưỡng thiên nhiên, có lẽ thiên nhiên chính là người bạn giúp Bác khuây khỏa, bớt đi sự vất vả mà Bác phải trăn trở suy tư. Từ đây, ta nhận thấy Bác là một người luôn biết hài hoà giữa công việc với tình yêu thiên nhiên và càng yêu thiên nhiên thì trách nhiệm đối với công việc càng cao bởi ta có thể nhận thấy đằng sau hình ảnh người ung dung ngắm trăng đó là một nỗi khao khát về một đất nước thanh bình, để ngày ngày con người được sống tự do, hạnh phúc.

Dường như trong Bác luôn xoáy sâu câu hỏi: Biết đến bao giờ đất nước mới được tự do để con người thỏa sức ngắm trăng? Đọc đến đây ta càng hiểu rõ hơn con người của Bác đó là một người luôn canh cánh trong lòng nỗi lo vì dân vì nước, vì đất nước Bác có thể hi sinh tất cả. Hình ảnh của Bác làm em dâng trào cảm xúc mến yêu, kính trọng Bác. Và ta đã luôn tự hỏi rằng: Có bao giờ Người được thảnh thơi để tận hưởng niềm vui của riêng mình? Bác thật vĩ đại trong tâm hồn em và của cả dân tộc Việt Nam. Qua bài thơ, ta cảm nhận được lòng yêu quê hương trong Bác thật sâu đậm, lớn lao và đã bắt gặp một tâm hồn thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản. Tác phẩm là một bức tranh đẹp về quê hương, về con người và sự sự hài hòa giữa cảnh và tình.

Bài thơ đã khép lại trong niềm xúc động dạt dào. Bác đã để lại cho đời những vần thơ hay đầy ý nghĩa, những vần thơ đó đã khơi dậy trong em tình yêu thiên nhiên và niềm kính yêu vô hạn vị Cha già của dân tộc.

Qua bài thơ này ta càng hiểu rằng trong hoàn cảnh nào, Bác vẫn giữ được thái độ bình tĩnh chủ động như vậy, mặc dù ẩn trong phong thái ung dung tự tại ấy là nỗi lo cho nước, nỗi thương dân. Trong cuộc đời 79 năm, Bác Hồ có biết bao đêm không ngủ vì nhiều lẽ nhưng điều khiến chúng ta cảm phục vô hạn đó là ý thức, trách nhiệm của Bác trước vận mệnh nước nhà. Ý thức ấy ở Bác không chút nào xao lãng.

👉 15 Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng

Kể Về Kỉ Niệm Với Con Mèo ❤️️ 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Kể Về Kỉ Niệm Với Con Mèo ❤️️ 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Với Những Câu Chuyện Sinh Động Và Giàu Cảm Xúc.

I. MỞ BÀI

Dẫn dắt vào hoàn cảnh nào em có được chú mèo? (được tặng nhân dịp sinh nhật, nhặt ngoài đường đem về nuôi,…)

Chú mèo này tên Mi Mi, trông chú rất dễ thương

II. THÂN BÀI

Miêu tả hình dáng con mèo:

Vóc dáng, ngoại hình:

Thân hình: Dài, trông như một trái đu đủ.

Bộ lông: Có ba màu: Trắng, cam, đen (tam thể) trông rất đẹp.

Đôi mắt: Tinh anh, nhìn rõ dù cho trong bóng đêm.

Hàm răng: Những chiếc răng sắc nhọn, trông rất đáng sợ khi mà nó nhe ra.

Đôi chân: Có một lớp thịt dưới bàn chân của mèo để giúp nó đi nhẹ nhàng và không gây ra tiếng động.

Đôi tai: Hay vểnh như nghe ngóng điều gì đó.

Bộ râu: Là kênh ra-đa, trông rất đáng yêu.

Miệng: Nhỏ bé, xinh xắn.

Khả năng, tính cách:

Bắt chuột rất giỏi.

Thích nũng nịu, thích được vuốt ve.

Sạch sẽ

Kể một kỉ niệm sâu sắc giữa em và chú mèo:

Một ngày, do tôi bận học nơi này nơi kia không có thời gian để quan tâm chăm sóc chú mèo nên đã quên mất chú mèo.

Đang học bài, mèo ta đến bên cạnh tôi kêu “meo…meo” suốt. Tôi nghĩ rằng nó đang làm phiền mình. Thế là tôi đá một cái, nó văng ra xa.

Thế nhưng, có lẽ cú đá đó hơi mạnh nên đã khiến cho chú mèo bị thương.

Nó rên “hừ…hừ”, khi học bài xong, tôi chợt nhớ tới nó không biết có sao không vì khi nãy tôi đã lỡ chân đá nó.

Tôi liền chạy đến bên xem nó ra sao. Tôi thấy nó nằm thoi thóp, thở dốc thở đổ. Tôi hoảng quá, liền bế nó ra khu khám bệnh để bác sĩ thú ý xem bệnh cho nó.

Bác sĩ nói rằng, nó bị cái gì đó đập mạnh vào bụng nên bây giờ nó hơi đau, cần phải chăm sóc nhiều hơn mới mau khỏi.

Tôi hốt hoảng, lo lắng cho nó. Thế rồi, nó cũng khỏe mạnh trở lại. Tôi rất mừng vì điều đó.

Tôi hối hận rất nhiều, tự trách mình vì đã làm tổn hại đến một loài vật bé nhỏ, đáng thương. Tự hứa với bản thân sẽ luôn yêu thương, quan tâm đến nó nhiều hơn.

Cảm nhận về chú mèo:

Chú mèo là một con vật dễ thương, ngoan ngoãn.

Đến tận bây giờ tôi vẫn yêu thương nó như ngày đầu đem về nuôi.

III. KẾT BÀI

Chú mèo là một người bạn thân thương của tôi.

Tôi hứa rằng tôi và nó sẽ luôn là đôi bạn thân của nhau.

Gợi ý 🔥 Hãy Kể Về Một Kỉ Niệm Đáng Nhớ Đối Với Một Con Vật Nuôi Mà Em Yêu Thích 🔥 15 Bài Hay Nhất

Tham khảo bài văn mẫu kể về kỉ niệm với con mèo, các em học sinh sẽ trau dồi thêm vốn từ và biết cách lựa chọn từ ngữ để sử dụng và xây dựng những câu văn hay.

“Meo meo meo rửa mặt như mèo”

Lời bài hát thiếu nhi vui tươi, ngộ nghĩnh ấy có làm bạn liên tưởng đến con vật nào không? Đó chính là chú mèo, người bạn nhỏ trong mỗi gia đình của chúng ta. Đối với tôi, chú mèo Mi Mi chính là một thành viên không thể thiếu trong nhà, luôn quấn quýt bên tôi không rời.

Tôi vẫn nhớ mãi về lần đầu tiên tôi gặp chú. Hôm đó trời mưa rất to. Trên con đường đi học về, tôi bỗng nghe thấy tiếng mèo kêu yếu ớt phát ra từ đâu đó. Đảo mắt tìm kiếm, tôi bỗng thấy một chú mèo con đang co ro ở gốc cây, nhìn mới tội nghiệp làm sao. Chẳng nghĩ ngợi nhiều, tôi mang chú về nhà, cũng may bố mẹ tôi đều yêu động vật nên đã đồng ý ngay tức khắc. Hồi ấy chú gầy còm và ốm yếu lắm, tôi đoán có lẽ chú bị lạc mẹ. Sau một thời gian chăm sóc, chú dần cứng cáp hơn, giờ đây trở thành một chú mèo vô cùng nhanh nhẹn và khỏe mạnh.

Chú có bộ lông trắng muốt, mềm mại như tơ. Hai mắt tròn như hai hòn bi ve, trong đêm tối thì sáng quắc. Hai tai lại giống như hai cái lá mơ, lúc nào cũng vểnh lên nghe ngóng. Bộ râu trắng như cước, có tác dụng vô cùng quan trọng trong việc phát hiện thức ăn và con mồi. Bốn chân thon dài, chuyển động vô cùng nhẹ nhàng, dưới chân chú có lớp đệm thịt và bộ móng vuốt sắc nhọn đủ để đe dọa bất cứ đối thủ nào. Chiếc mũi hồng hồng ươn ướt vô cùng nhạy bén. Cái đuôi dài lúc nào cũng ve vẩy đằng sau, khi vui thì cong lên, lúc buồn lại cụp xuống.

Chú mèo và tôi đã có vô số những kỉ niệm khi ở bên nhau. Hàng ngày, lúc rảnh rỗi, tôi lại cùng chú chơi đùa. Chú rất thích được tôi vuốt ve, ôm ấp. Những lúc như thế, cái đầu nhỏ của chú lại cọ vào tay em như là nũng nịu. Thế nhưng, kỉ niệm sâu sắc nhất có lẽ là khi tôi chứng kiến một lần chú bắt chuột. Hôm ấy, đã đến giờ cơm mà gọi mãi không thấy chú đâu, tôi lo lắng đi tìm thì phát hiện ra chú đang ở góc bếp, chăm chú theo dõi một thứ gì đấy. Tò mò, tôi đứng ngoài quan sát, thì ra là chú đang bắt chuột. Bốn chân chú khom lại đằng sau, hai mắt nhìn chằm chằm vào con chuột.

Con chuột có lẽ không biết mình bị theo dõi, vẫn tiếp tục gặm dở bắp ngô. Chọn thời điểm thích hợp nhất, Mi Mi bỗng lao mình ra, hai chân tóm chặt lấy con chuột. Hành động của chú nhanh và bất ngờ đến nỗi làm tôi cũng phải giật mình. Con chuột bây giờ chỉ biết kêu những tiếng chít chít thật tội nghiệp, đáng thương, tôi nghe như nó đang cầu xin Mi Mi tha cho nó. Thế nhưng Mi Mi vẫn làm ngơ trước lời kêu cứu ấy, sau khi chơi đùa con chuột chán chê, Mi Mi lập tức xử gọn con chuột. Để thưởng cho chiến công của chú, tôi dành cho Mi Mi một bữa thật no với con cá rán vàng ươm.

Từ đó, tôi càng thêm yêu quý chú mèo ngoan ngoãn, chăm chỉ này hơn. Nhờ có chú mà lũ chuột không dám quấy rầy gia đình tôi nữa. Chú trở thành người bảo vệ thầm lặng cho gia đình chúng tôi, canh giữ sự bình yên cho gian bếp. Tuy vậy, cũng có lúc chú lười biếng, nằm trên sân phơi bụng tắm nắng. Cái mặt nheo nheo lại có vẻ khoái chí lắm.

Nhớ về chiến công đầu tiên của chú, tôi khẽ mỉm cười thật tươi. Tôi hy vọng Mi Mi sẽ gắn bó thật lâu với gia đình chúng tôi, cùng tôi trải qua thời thơ ấu thật tươi đẹp.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Kể Về Một Kỉ Niệm Đáng Nhớ Của Em 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất

Bài văn kể về kỉ niệm với con mèo ngắn gọn sẽ giúp các em học sinh tham khảo được lối hành văn súc tích và những hình ảnh nhiều ý nghĩa.

Ngày còn nhỏ em vốn là một cậu bé vô cùng yêu quý các loại động vật. Con vật nào em cũng thích nhưng em yêu nhất là con mèo. Thấy em quýt mèo nên mẹ đã mua cho em một con mèo vô vùng dễ thương. Em đặt tên mèo là Xu Xu. Em và Xu Xu có một kỉ niệm vô cùng đáng nhớ, đó là một kỉ niệm suốt đời em không thể nào quên được.

Mỗi ngày khi em đi học về chú mèo Xu Xu thường ngoáy đuôi vô cùng vui mừng khi em đi học về. Mỗi tôi khi em ngồi học bài chú mèo Xu Xu thường ngồi dưới chân của em ngoan ngoãn chờ em học bài. Em có rất nhiều kỉ niệm vui buồn gắn liền với con mèo thân thiết của mình. Ngày ngày chúng em thường vui đùa cùng với nhau, em thường cho mèo đi chơi cùng mình, thường xuyên ra công viên vào ngày chủ nhật rồi chơi trò đuổi bắt hoặc bắt bóng.

Em chăm sóc chú mèo rất chu đáo nên chú mèo Xu Xu của em ngày càng lớn hơn, mập mạp và dễ thương. Buổi tối, khi đi ngủ em thường ôm Xu Xu ngủ cùng. Con mèo Xu Xu của em có tài bắt chuôt rất siêu chỉ cần thấy con chuột ở đầu thì chú mèo Xu Xu liền néo vào tường và nhảy ra vồ một cái thật nhanh gọm là chú chuột đã nằm gọn trong móng vuốt của con mèo Xu Xu. Từ ngày có con mèo Xu Xu gia đình em vui vẻ hẳn lên bởi chú mèo rất đáng yêu, nó làm cho cả nhà em cười mỗi khi nhìn nó đi lại ngoáy ngoáy cái đuôi, trông thật ngộ nghĩnh.

Kỉ niệm đáng nhớ của em đó là một lần em nhớ mãi. Hôm đó, em và chú mèo đi ra công viên gần nhà để chơi đuổi bắt như mọi lân. Em thường quăng bóng đi thật xa rồi Xu Xu đi nhặt về cho em. Khi em đang lùi dần lùi dần để lấy đà ném bóng thật mạnh, thì không may trượt chân xuống hồ ở ngoài công viên. Em không biết bơi nên vô cùng hoang mang. Em tìm cách bám víu vào những gì có thể nhưng xung quanh không có gì để em níu kéo được. Em ú ớ kêu cứu và hoang mang lo lắng.

Trong lúc nguy cấp, con mèo Xu Xu chính là ân nhân cứu giúp cho em. Khi nó thấy em chấp chới dưới nước, nó liền chạy đi kêu cười xung quanh ở gần đó. Chính vì vậy, ngay lúc đó một bác đi tập thể dục đã vội vàng cứu em lên bờ an toàn. Sau lần suýt chết đó, em đã vô cùng biết ơn chú mèo Xu Xu của mình. Đó là một kỉ niệm vô cùng đáng nhớ đối với con vật nuôi mà em yêu thích.

Em thầm cảm ơn chú mèo Xu Xu thân yêu của mình. Nhờ có nó mà em mới có thể thoát được kiếp nạn đó. Em tự hứa với mình sẽ chăm sóc chú mèo Xu Xu thật tốt để nó có thể mãi mãi là người bạn thân thiết suốt đời em.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Đón đọc bài văn mẫu kể về kỉ niệm đáng nhớ với con mèo với cách xây dựng tình tiết tự sự hấp dẫn, để lại nhiều ấn tượng với người đọc.

Bun là một chú mèo rất dễ thương. Chả là năm lớp 4, do đạt thành tích cao trong học tập nên bố mẹ đã mua tặng cho tôi một chú mèo xám vằn, loại vật mà tôi yêu thích. Lúc mới về chú rất nhút nhát, chỉ biết nằm ở góc tường thu lu người và buồn. Đến bữa chú chỉ ăn vài miếng rồi tiếp tục hành trình ngủ đông của mình. Được một thời gian khi đã thích nghi với môi trường xa lạ Chú lại trở thành một chú hề cho cả nhà. Lắm lúc Chú đẩy banh, rồi lấy mũi đẩy viên bi vờn qua vờn lại.

Tuy hơi hề nhưng Bun biết suy nghĩ lắm! Tôi và Chú là hiểu nhau nhất. Mỗi khi học bài Chú đều quanh quẩn bên tôi, lúc thì trèo lên bàn đẩy đẩy cây viết, lúc thì cuộn tròn mình ngủ sát bên đùi tôi. Ôi, Bun thật đáng yêu làm sao! Lắm lúc tôi ngồi ngắm Bun và thấy Chú có một vẻ đẹp riêng. Bộ lông chú óng mượt xám xám lại xen vào vài cái vằn đen. Hai cái tai vểnh lên lâu lâu lại cọ quậy như chú ý lắng nghe gì đó.

Cặp mắt tròn long lanh nổi bật là hai con ngươi đen nhánh hiện ra. Cái mũi hồng hồng lúc nào cũng ươn ướt đánh mùi rất tài. Chân của Chú thì thoăn thoắt mỗi khi có báo động ở đâu chú đều khẩn cấp lao tới liền nhưng chẳng bao giờ nghe tiếng động cả bởi lớp chân có những đệm thịt rất êm và mịn. Tính tình của chú lại càng đáng mến hơn. Mỗi lần tôi vui chú chạy nhảy với tôi. Chú trèo lên cây lại nhảy xuống, chạy xung quanh thỉnh thoảng lại cào tôi một cái nhẹ, lúc thì cắn quần rồi chạy y hệt sợ tôi rượt. Những lúc âu yếm, chú nằm gọn trong lòng tôi đòi tôi vuốt ve bộ lông từ khóe mắt xuống tai.

Những lúc tôi buồn hay bị bệnh nhìn vẽ mặt tôi dường như Bun hiểu. Nó như muốn chia buồn với tôi. Nó nằm xuống cạnh tôi lặng im, chẳng đùa giỡn như mọi hôm nữa. Tôi mỉm cười nói khẽ: “Chị không giận em đâu mèo cưng ơi!”. Nhưng cu cậu vẫn chẳng vui mà còn lại làm nũng nữa cơ. Đúng thiệt là con mèo lắm trò!

Suốt thời gian đó Bun là một người bạn thân của tôi lúc vui cũng như lúc buồn. Phải nói là người bạn tri kỉ của tôi thời học cấp I. Từ khi hoàn thành chương trình cấp I phải di cư vào trường nội trú thân yêu tôi phải xa Bun. Trước hôm đi tôi cùng cả nhà và mèo Bun nữa, cùng nhau quây quần bên mâm cơm ấm cúng.

Mọi người nói cười vui vẻ còn tôi thì gắp cho mèo Bun những thứ ngon. Hôm sau, khi chia tay, mọi người. Đây là giờ cao điểm sao ngăn được những giọt lệ rơi. Tôi khóc, mẹ tôi cũng khóc và rồi tôi phải đi, nhưng kìa mèo Bun và nũng nịu như không muốn cho đi. Lúc này tôi khóc càng to và chạy thật nhanh lên xe mặc cho mèo Bun ngơ ngác đứng nhìn rồi buông một tiếng “meo”.

Thời gian qua, tôi cứ ngóng từng ngày để được về với gia đình và mèo Bun dù chỉ hai ngày. Mỗi lần về Bun mừng lắm, nó lúc nào cũng ở bên tôi không rời, thậm chí lúc tôi ngủ nó cũng trèo lên giường chui vào chăn ngủ cùng. Thời gian cứ thế đi cho đến một ngày tôi nhận được tin mèo Bun qua đời vì bệnh tự dưng sống mũi tôi cứ cay cay, tôi núp vào một góc, nước mắt giọt ngắn giọt dài, tôi cứ thế nức nở nhớ mèo Bun. Một người bạn tri kỷ, luôn bên tôi lúc tôi vui tôi buồn mà bây giờ lại bỏ tôi một cách thản nhiên như vậy. Và tôi cũng thầm chúc Bun “ở bên kia thế giới” sẽ luôn vui vẻ như những ngày cùng chơi với tôi.

“Bun ơi! Chị yêu em nhiều”

Đến tận bây giờ, những khi buồn tôi lại nhớ đến Bun. Và cứ nghĩ đến những ngày bên Bun lòng tôi thắt lại. “Tại sao trên đời lại có con vật đáng yêu như vậy nhỉ?”

Ngoài ra, tại chúng tôi còn có 🌺 Tả Con Mèo Nhà Em 🌺 15 Bài Văn Tả Về Con Mèo Hay Nhất

Chắc hẳn, trong mỗi gia đình bây giờ thường có một con vật nuôi nhỏ bé. Nhà tôi cũng vậy. Nhà tôi nuôi một chú mèo vàng. Tôi đặt tên cho nó là Ron. Và nó là một chú mèo rất đặc biệt, từ hình dáng đến tính tình của nó. Và tôi với Ron có một kỉ niệm nhỏ trong mùa hè vừa rồi…

Như tôi đã nói, Ron là một con mèo có hình dáng khá đặc biệt. Nó hơi béo, có một bộ lông vàng, mượt, mềm mịn, điểm thêm một vài khoang trắng. Mắt Ron to, tròn, xanh biếc như màu ngọc lục, thỉnh thoảng tôi còn nghĩ chúng là những viên ngọc được trời tặng cho Ron.

Móng vuốt của nó sắc, cong nhọn như cái móc câu, nhưng nó sẽ mãi chỉ là một con mèo bình thường như mọi con mèo khác nếu không có điểm này: Ron có một cái đuôi khoá. Mẹ tôi và các bác hàng xóm thường bảo “Mèo đuôi khoá là mèo khôn đấy!”. Tôi không hiểu nó đẹp ở điểm nào mà tôi rất yêu nó! Phải chăng đó là điều làm cho Ron khác biệt hơn các con mèo khác?

Tôi và Ron đã có một kỉ niệm thật thú vị trong hè vừa rồi. Chắc chắn tôi không thể nào quên.

Hôm đó là một buổi sáng chủ nhật đẹp trời. Những giọt nắng của mặt trời chiếu rọi xuống đám cỏ trong vườn nhà tôi. Thật là tuyệt nếu buổi sáng đó ra khỏi nhà và đi dạo một vòng. Chắc Ron cũng biết vậy. Sáng, nó chạy ra vườn chơi, nằm sưởi nắng, đùa nghịch với những bông hoa sặc sỡ trong góc vườn. Nó dùng những móng vuốt sắc nhọn cào vào vỏ cây.

Tôi đứng ngoài đó, ngắm nhìn chú mèo con thoải mái vui đùa, trong lòng khoái lắm. Nhưng nhìn đồng hồ đã tám rưỡi, tôi vội chạy vào nhà, đóng sầm cửa lại và bật chương trình ti vi mình yêu thích lên xem. Tôi quên mất rằng Ron đang ở ngoài đó, kêu gào ầm ĩ vì bị nhốt ở ngoài. Tôi chăm chú xem, không hề biết rằng chú mèo tội nghiệp đang phải loay hoay tìm mọi lối vào nhà.

Mười giờ sáng, tôi tắt ti vi đi, định lên nhà tìm quyển sách để đọc, mẹ tôi chợt hỏi:

– Con có thấy con mèo Ron đâu không? Từ sáng đến giờ mẹ chẳng thấy nó đâu cả!

Tôi giật mình. Chết rồi, con mèo Ron ở ngoài vườn, vừa nãy mình đóng cửa xem ti vi nên chắc nó bị nhốt ở ngoài. Tôi chạy vội ra vườn. Không một tiếng kêu, không có dấu chân, cũng không có bóng hình Ron luôn. Tôi hoảng hốt thật sự. Tôi chạy vòng quanh vườn, miệng gào to:

– Ron! Ron! Mày ở đâu? Meo! Meo! về đi rồi tao cho mày uống sữa.

Tôi chạy một vòng, mỏi chân quá, đứng lại. Trán đẫm mồ hôi, tôi thở dốc, khản cả giọng. Nó vẫn không kêu. Tôi đưa mắt nhìn vào cửa sau. Cửa sau vườn mở tung. Tôi lo sợ, dù mệt mỏi nhưng vẫn tiếp tục chạy ra đường. Tôi tiếp tục gào đến khản cổ, mất giọng mà vẫn không thấy nó đâu. Tôi chán nản, thất thểu đi về nhà trong tuyệt vọng. Những giọt nước mắt chảy trên má tôi. Tôi khóc. Tôi khóc không phải vì tiếc con mèo mà là thương nhớ nó. Nếu Ron gặp tai nạn thì sao? Tôi tự trách mình vì thói vô trách nhiệm, nuôi loài vật mà lại không có trách nhiệm, bỏ bê nó, đến lúc nó bị làm sao thì mới bắt đầu thương tiếc.

Về nhà, tôi không nói: một phần là vì tôi đang mất giọng mà có nói được thì tiếng nấc cũng sẽ chặn lời nói lại. Tôi ăn cơm một cách chán nản, con mắt đờ đẫn ; chiếc đũa tôi cầm trên tay cứ tuột ra liên tục. Ăn giữa chừng, tôi bỏ dở, lên phòng, không để ý đến sự lo lắng của mẹ.

Ngày hôm đó trôi qua thật nhanh. Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc muôn ngàn vì sao lấp lánh trên bầu trời đêm. Ánh đèn đường sáng trưng. Trẻ con ra phố nô đùa hay đi dạo. Tôi tắt phụt đèn, kéo rèm lại và đi ngủ để quên đi những nỗi buồn. Nhưng tôi không thể nào quên đi được. Hình ảnh chú mèo vàng đáng yêu cứ hiện ra trong tâm trí tôi. Càng nghĩ đến Ron, tôi càng thấy thương nó. Nhỡ nó ra ngoài đường rồi bị xe tông thì làm sao? Hay nó sang bên bờ sông chơi mà bị ngã xuống sông? Càng nghĩ, tôi càng khóc nhiều hơn. Nước mắt ướt vỏ gối.

Tôi nghe thấy tiếng mèo kêu văng vẳng đâu đây nhưng tôi chỉ nghĩ là mình thương Ron quá nên tưởng tượng. Chợt tôi nhìn thấy trên cửa sổ có một bóng hình con mèo to lớn in trên rèm. Đó là hình một con mèo đang nằm trên cành cây to. Tôi hoảng sợ, tưởng đó là ma. Nhưng trấn tĩnh lậi, tôi run run kéo rèm ra. Ngạc nhiên làm sao! Đó không phải là ma mà chính là một chú mèo con đang nằm trên cành cây. Mừng quá, nghĩ đó là Ron, tôi mở cửa, chạy xuống nhà, ra vườn. Chú mèo Ron kêu lên :

– Meo ! Meo !

Tiếng kêu nghe như là vui mừng. Ron tụt xuống đất. Lông nó xù, chắc là bị vướng vào lá cây. Tôi vội ôm chầm lấy nó, bế Ron lên lòng bàn tay, lấy tay chải lông lại cho nó. Tôi khóc. Một lần nữa, tôi lại khóc. Nhưng đây là những giọt nước mắt của sự sung sướng. Bố mẹ tôi cũng chạy ra.

– Con nín đi! Khóc làm gì? Ron nó đã về rồi mà! Con khóc như con gái đấy!

Nhưng tôi vẫn khóc. Tôi thả Ron để cho chú mèo con chạy vào nhà. Cả đêm đó, tôi không ngủ được. Tôi rất mãn nguyện. Tôi rất sung sướng vì người bạn nhỏ thân thiết của tôi đã về.

Từ câu chuyện này, tôi đã rút ra nhiều bài học. Nuôi loài vật phải có trách nhiệm với chúng. Vì vậy, tôi sẽ luôn yêu quý thương yêu Ron và hứa sẽ chăm sóc Ron đến khi nào nó qua đời.

Giới thiệu tuyển tập ☔ Tả Một Con Vật Em Chợt Gặp Trên Đường ☔ 15 Bài Văn Hay

Kể về kỉ niệm với con mèo văn mẫu hay sẽ mang lại cho các em học sinh những gợi ý thú vị để hoàn thiện bài viết của mình tốt nhất.

Hồi bé, tôi là đứa trẻ rất yêu mến động vật, hầu như vật nuôi nào tôi cũng thích, nhưng tôi thích nhất là con mèo. Thấy tôi rất yêu thích mèo, mỗi lần qua nhà hàng xóm chơi tôi cứ nhìn chằm chằm vào con mèo, nên cha tôi mới xin về cho tôi. Tôi có một kỉ niệm rất đáng nhớ về chú mèo ấy.

Sau khi tôi có được chú mèo thuộc quyền sở hữu riêng của tôi, hằng ngày tôi cứ đùa giỡn, lúc nào cũng ôm mèo trên tay, tôi thường hay bị mẹ mắng vì cứ ôm mèo suốt, chú mèo này rất mập mạp, chú mèo vừa mới lớn, tôi dạy dỗ mèo, không được ăn vụng, không được phá phách, và đặc biệt là bắt chuột rất giỏi. Đôi khi mèo rất lười biếng, cứ ăn rồi là nhắm mắt nằm ngủ vì lúc ấy tôi đi học.

Khi đi học trở về là tôi ăn cơm, cũng không quên phần cơm của mèo, ăn xong tôi lại tắm rửa cho mèo, nhìn mèo ở trong nước bộ lông xẹp xuống, chỉ thấy cái bụng no căng, trông rất đáng yêu. Tôi lao bộ lông đang ước của mèo, mân mê cái bụng xinh xinh của mèo, mèo thích nũng nịu và vuốt ve, tôi mĩm cười.

Chú mèo của tôi khá lùn, nhưng đuôi rất dài, ngoại hình rất ú, lúc nào cũng ăn, thân hình như trái đu đủ, tròn tròn mũm mĩm. Bộ lông vàng óng ánh rất bắt mắt, mèo có đôi mắt đen huyền rất tinh xảo, hàm răng trắng muốt, răng rất đều nhỏ và khít chặt, có hai chiếc răng nanh không quá nhọn, vì lúc trước cha tôi từng mài bộ răng nanh ấy để tránh làm tôi bị thương. Đôi chân được tôi cắt móng tỉ mỉ, cứ ra dài là tôi cắt trong rất gọn gàng sạch sẽ.

Đôi tai lúc nào cũng hoạt động, rất nhạy bén, bộ râu thì ngắn, tôi thường vuốt mấy cọng râu ấy, cái miệng nhỏ nhỏ xinh xinh,môi hồng hồng như có ai tô son cho mèo vậy. Chú mèo của tôi rất sạch sẽ, tôi thích ôm mèo lúc ngủ mèo lúc nào cũng ngủ cạnh tôi, tôi và mèo như những người bạn thân lúc nào cũng ở cạnh nhau, tôi ôm mèo, mèo rất thích nằm trên cánh tay tôi, lúc nào cũng quấn lấy tôi hết ngày này qua ngày nọ, cứ ở cạnh tôi như thế.

Tôi vẫn còn nhớ cho tới tận bây giờ tôi không quên được. Ngày đó tôi đang bận học vì thi cuối kì, bài rất nhiều, tôi cũng rất căng thẳng, không muốn ai làm phiền, nên những ngày đó tôi cũng không quan tâm chăm sóc cho mèo nữa, tôi quên luôn mèo. Lúc tôi đang rất tập trung vào chuyện học mèo đến cạnh tôi và cứ trèo lên người tôi, như muốn được ôm, tôi bỏ mèo xuống và tiếp tục tập trung.

Giống như mèo biết được sự xa lánh của tôi, vẫn không bỏ cuộc cứ quấn lấy chân tôi kêu “meo, meo” cứ như vậy khiến tôi rất bực, tôi nghĩ nó đang làm phiền tôi, tôi phát cáu, nỗi giận và lở tay đá nó văng ra xa, nó kêu rất lớn, ngừ ngừ với tôi và nằm một chỗ ở đó, chắc nó đã bị thương, tôi cũng không quan tâm, tôi lại chú tâm vào việc học. Sau khi học xong tôi mới nhớ lúc nãy tôi đã làm mèo bị thương, tôi nhìn xung quanh không thấy nó, tôi đi tìm ở góc bếp, ở phòng khách cũng không thấy, tôi thấy cái đuôi nó đưa ra thì ra là nằm ở dưới bàn.

Tôi đưa tay sờ vào mèo, mèo ngừ lại tôi, dường như nó rất giận vì tôi đã làm nó bị thương. Nó bỏ chạy trốn tránh tôi, tôi ngây người và ngồi khóc cảm giác rất xa lạ, tôi cảm thấy vô cùng có lỗi với mèo. Tôi không quan tâm bỏ rơi mèo và còn làm bị thương mèo. Tôi ngồi một lúc rồi thấy có cái gì dựa vào chân mình tôi quay qua thấy mèo đang nũng nịu với tôi. Tôi ôm mèo lên, xoa lại vết thương mà tôi đã gây ra, lấy dầu sức cho mèo. Tôi cảm thấy có lỗi vô cùng, tôi cứ tưởng mèo sẽ sợ tôi và xa lánh tôi. Mèo là con vật rất nghe lời chủ, tôi và mèo lại như vậy rất thân thiết.

Chú mèo là bạn thân của tôi, tôi rất yêu mến nó, rất sợ mất nó. Mèo là người bạn bên tôi lúc vui buồn, sắn sàng ở cạnh tôi không bao giờ xa lánh tôi, tôi rất nhớ mèo. Tôi hứa sẽ không để mèo bị thương nữa. Tôi sẽ mãi là người chủ yêu mèo, chăm sóc cho mèo, con vật thông minh.

Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới

Bài văn kể về kỉ niệm với con mèo đạt điểm cao sẽ giúp các em học sinh nâng cao kỹ năng viết và học hỏi thêm những tình tiết tự sự hấp dẫn để hình thành nét văn phong của bản thân.

Lời bài hát thiếu nhi vui tươi, sinh động này liệu có làm bạn nhớ tới những con vật nuôi mà bạn đã từng chăm sóc không? Chúng thật sự là những người bạn vui vẻ đấy. Đối với tôi, tôi vẫn luôn nhớ mãi một kỉ niệm sâu sắc với con Miu mà nhà tôi đang nuôi bây giờ.

Cho đến bây giờ, tôi không sao quên được cái ngày mà bố tôi đem nó về nhà. Nó – một con mèo có bộ lông trắng tinh có những đốm vàng trông thật ngộ nghĩnh. Đôi mắt nó màu xanh trong xanh trông dễ thương đến lạ. Nhà tôi đặt tên cho nó là Miu. Con Miu chỉ sinh được mấy ngày thì mất mẹ nên nó suy dinh dưỡng vào loại nặng. Hồi mới bắt về, nó bé xíu và còm còi lắm. Nhưng tất cả mọi người đều thấy nó có vẻ đáng yêu làm sao, nhưng với riêng tôi thì không!

Vì sao vậy, tôi cũng không biết nữa. Tiếng kêu của nó vào ban đêm nghe sao mà giống tiếng em bé khóc thế không biết. Những đêm đầu tiên, tôi không tài nào chợp mắt được. Mỗi lần nghe nó kêu là tôi lại rùng mình, sợ lắm. Đêm nào nó cũng kêu làm tôi ghét nó đến kinh khủng. Nhưng cả nhà ai cũng thích nó. Chị tôi ẵm nó suốt ngày. Ngày nào đi chợ, mẹ cũng mua cá về cho nó. Tôi còn nhớ tôi đã nói với mẹ là mua đôi vớ mới cho tôi, vậy mà cá cho nó thì có còn vớ cho tôi mẹ lại quên.

Lúc đó, tôi thật là buồn. Tôi cảm thấy mình thật cô đơn từ khi có con mèo này. Tình thương của mọi người dành cho tôi dường như cũng bị san sẻ đi một nửa cho nó. Ôi, tôi thật ganh tị với nó. Mấy người hàng xóm qua chơi vẫn khen ngợi nó luôn. Chỉ trong vòng vài tuần, con Miu đã tròn hẳn lên. Lông nó vàng vàng, càng mịn hơn. “Hình như nó đã chiếm được cảm tình của mọi người thì phải.” Tôi thấm nghĩ như vậy mà lòng cảm thấy buồn buồn.

Tối nào ngồi vào bàn học, tôi cũng thấy nó cuộn mình nằm ngay dưới ghế tôi. Cái đầu của nó cạ cạ vào chân tôi như làm quen, chỉ khi nào tôi lên giường ngủ và tắt đèn thì nó mới chịu về chỗ của mình. Tôi cũng không thèm đuổi nó nữa. Không biết tự bao giờ tôi đã quen với sự có mặt của con Miu. Không có nó, tôi lại kêu “meo, meo… Miu đâu, Miu đâu…” khắp nhà để tìm. Càng lớn, con Miu càng nhanh nhẹn. Nó bắt chuột thiện nghệ đến mức thỉnh thoảng các bác hàng xóm phải sang mượn nó về để trị mấy con chuột phá phách. Miu thật là một thành viên tích cực không chỉ của nhà tôi mà còn của cả xóm.

Có một lần, do đểnh đoảng trong lúc dọn dẹp, tôi đã sơ ý làm bể chiếc bình hoa mà mẹ thích nhất. Lòng tôi đang nơm nớp lo sợ mẹ la. trong lúc thu dọn những mảnh vụn thủy tinh, tôi bỗng nghĩ:

-Sao mình không đổ tội cho con Miu nhỉ?

Tuy rằng, Miu không phải là con mèo hoàn hảo nhưng cả nhà tôi vẫn rất thương nó. Bây giờ, Miu đã trở thành một thành viên không thể thiếu trong gia đình. Tôi và nó đã trở thành bạn thân. Tôi đã học được nhiều điều bổ ích từ nó.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Bài Văn Tả Động Vật Hay 🌟 15 Bài Văn Tả Các Loài Vật

Bài văn kể về kỉ niệm với con mèo đặc sắc sẽ giúp các em học sinh tham khảo được cách sử dụng từ ngữ kể chuyện khéo léo và trau dồi vốn từ thêm phong phú.

Có một dạo, xóm tôi rộ lên nạn bắt mèo. Những con mèo gầy trơ xương như của bà Phương, mà còn bị chúng nó câu bắt huống chi con Đen nhà tôi vừa béo, vừa đẹp, lại là giông mèo quý thì không thoát khỏi. Con Đen mất rồi nhưng con Mướp vẫn còn. Tôi tưởng con Mướp từ nay sẽ được ung dung vào ổ.

Chuyện đó xảy ra cách đây nhiều năm nhưng tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Hồi ấy nhà tôi có nuôi một con mèo. Theo hình dáng bên ngoài nên tôi đặt tên nó là Mướp. Mướp có bộ lông vằn vện như hể, đôi mắt sáng quắc trông rất dữ dằn nhưng kì thực, nó là một con mèo rất hiền lành. Nó thường lủi thủi một mình, không thích ai bế ẵm, mà nó cũng chẳng thích gây chuyện với mấy con mèo hàng xóm. Bữa ăn, tôi chỉ xẻn cho nó một tí cơm và mấy cọng rau. Nhưng, nó cũng chẳng kêu la, xin xỏ thêm. Có những trưa tôi nhìn thấy nó nằm sưởi nắng ngoài sân. Đôi mắt lim dim, một con bướm đậu bên tai nó cũng chẳng thèm đuổi.

Tôi cứ nghĩ nó là con mèo lười nên chẳng bao giờ quan tâm đến nó. Thời gian cứ bình thản trôi như nó vốn có. Rồi một hôm, Mướp bỏ đi ba ngày. Tôi cũng chẳng cần biết nó đi đâu, làm gì. Ngày thứ tư thì nó về, gầy sọp đi một nửa. Nhưng nó đã có bụng. Rồi thì nó đẻ, nó đẻ con. Bốn con mèo chưa đủ lông. Đỏ hon hỏn. Duy có một con trông còn cứng cáp nhưng xem chừng yếu ớt lắm, khó sống nổi. Mẹ tôi gói ba con kia lại, chép miệng tiếc rẻ: “Thôi, đành vứt đi vậy”.

Mướp cô’ giữ lại con cuối, nó ấp con vào lòng, liếm hết mình mẩy con mèo con đang thoi thóp thở. Nhưng, cái việc làm đó dường như là tuyệt vọng. Mẹ tôi gói nốt con kia vào rồi chôn ra sau vườn. Hôm đó, Mướp bỏ ăn, nó kêu gào suốt. Đến đêm, tôi vẫn còn nghe tiếng gào đứt ruột của nó. Anh cả nói: “Chắc nó nhớ con, tội nghiệp”. Từ dạo ấy, tôi bắt đầu chú ý đến nó hơn và từ dạo ẩy, nó càng trở nên lầm lũi hơn. Nó chỉ quanh quẩn ở xó bếp nhưng không bao giờ ăn vụng. Mỗi bữa, tôi cho nó thêm một miếng thịt nhưng nó chỉ nhấm mấy cọng rau rồi lại bỏ ra ngoài vườn cào cào như lục tìm cái gì đó.

Tháng ba, nhà tôi có thêm một con mèo nữa. Đó là một con mèo cái đen tuyền trông rất thích mắt. Khác với con mèo Mướp, nó thường dụi đầu vào lòng hoặc quanh quẩn bên người để được âu yếm vuốt ve. Nó hay gâysự với mấy con mèo hàng xóm rồi đánh nhau, có khi chảy cả máu. Bữa ăn, nó thường lân la sang chỗ con Mướp để ăn tranh. Cứ mỗi lần như thế, con Mướp lại quay lại rồi lặng lẽ ra khỏi bếp. Rồi, cũng như Mướp, con Đen có chửa. Vì được cả nhà chăm sóc nên nó “mẹ tròn, con vuông”.

Mẹ con con Đen ở trong một cái ổ rơm cạnh cánh cửa bếp. Mỗi lần con Đen liếm láp âu yếm lũ mèo con, tôi lại thấy con Mướp đứng khép nép sau cánh cửa, nhìn với vẻ thèm thuồng. Một lần, con Đen ra ngoài sân sưởi nắng, con Mướp liền khẽ vào ổ, lén chăm sóc bọn mèo con. Nhưng khi nó đang tận hưởng sự mặn mòi của tình mẫu tử thì con Đen xuất hiện. Mướp hốt hoảng nhảy vọt ra khỏi ổ rồi lao vút qua cửa sổ. Con Đen xù lông, mắt long lên vì tức giận nhưng rồi sau vài phút, nó lại dịu đi và vào ổ cho lũ mèo con bú.

– Lũ mèo con giờ đã mở mắt, có thể ăn cơm được, phiên chợ tới sẽ đem bán.

Tôi giật mình, phần thì tiếc vì tôi vốn quý mèo con, phần thì thấy tội cho con Mướp. Tôi cố năn nỉ nhưng không thay đổi được quyết định của mẹ. Ngày mẹ đem lũ mèo con đi bán, con Mướp lăn lộn khắp nhà. Nó lại kêu lại thét, lần này còn dữ dội hơn lần trước. Tôi cũng thương nó lắm. Mấy hôm sau, không thấy nó đâu nữa. Không biết nó có bị bắt không? Hay nó đi xa nên bị lạc? Hay bão thế này, nó đã bị cây đè chết rồi? Mướp ơi!

Đừng bỏ qua 🔥 Tả Một Con Vật Nuôi Ở Vườn Thú 🔥 15 Bài Văn Tả Hay Nhất

Bài văn kể về kỉ niệm với con mèo chọn lọc mang đến những ý văn đặc sắc giúp các em học sinh học hỏi và xây dựng cho bản thân một văn phong hay.

Tôi thích tới nhà bà ngoại chơi để được nghe kể chuyện. Giọng của bà nghe êm ái đến nỗi nhiều lúc tôi ngủ quên luôn trên ghế bành, mặc kệ bà vẫn tiếp tục thủ thỉ. Nhà bà ngoại có một con mèo cái to, tôi đặt tên nó là Xấu Xí. Con mèo này tự đến rồi ở lại luôn, chứ bà ngoại không xin nó về.

Một bữa nọ, tôi ngồi trong nhà bà nhìn qua cửa số nhìn ra khoảng sân. Xấu Xí đang dẫn đàn con nó đi dạo buổi sáng ven cái hàng rào thưa nằm ở cuối sân giáp với nhà hàng xóm. Lũ mèo con lông xám mắt xanh hệt như mẹ, quây quanh xấu Xí. Con lon ton chạy trước, con tụt lại đằng sau dí mũi đánh hơi bên hàng rào, con tạt ngang tìm cách bỏ xa mẹ, lại có con lăn kềnh ra miệng cắn đuôi mẹ nghịch ngợm.

Bất chọt có tiếng chó giận dữ sủa váng tai. Một chú mèo con đuôi quắp lại, lao qua lỗ thủng ở chân rào chạy về phía mẹ. Hắn trong lúc mải chơi, chú mèo con này đã xâm phạm lãnh thố nhà hàng xóm. Con chó không tha, nó bám theo nhưng chợt khựng lại trước xấu Xí.

Thật khó lòng nhận ra dáng điệu còm ròm của con mèo. Lông dựng đứng, xấu Xí vươn cao người vung hai chân trước tát thắng vào mũi con chó. Hăng máu, con chó bật sang mỗi bên rồi lại lao vào. xấu Xí điên cuồng lăn xả vào kẻ thù định bám theo con nó, miệng rít lên tiếng kêu chói tai. Không biết có phải tiếng thét đó là hiệu lệnh hay không, nhung lũ mèo con chạy thắng vào nhà.

Tôi không còn nhìn thấy từng động tác của xấu Xí, chỉ thấy cái bóng xám lớn của nó vật xuống rồi lại tung lên trước mõm con chó và nghe thấy tiếng kêu giận dữ. Cuộc chiến kéo dài chừng hon 5 phút và chỉ dừng lại khi bà tôi từ dưới bếp chạy ra sân đánh con chó và bế xấu Xí vào nhà. Nó nằm sóng xoài, người bê bết máu. Tôi tưởng nó đã chết, nhưng khi lũ mèo con đánh hơi mẹ rúc lại, ria của nó ngọ nguậy, nó khẽ mở mắt ra và duỗi thắng người cho bầy con chen chúc tìm vú.

Sau vụ huyết chiến với con chó nhà hàng xóm đế bảo vệ bầy con của mình, Xấu Xí bị thọt một chân, mù một mắt và bị cắn đứt một tai. Một lần, khi tôi dẫn cậu bạn Eric tới nhà bà ngoại chơi, vừa thấy con xấu Xí, cậu ta vội thốt lên:”Mèo ở đâu trông mà khiếp thế?”, tôi đáp: “Đừng vội nói thế, bạn ạ. Cứ sống rồi biết”.

Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào

Bài tập làm văn kể về kỉ niệm với con mèo của em sẽ giúp các em học sinh tham khảo được những góc nhìn đặc biệt và cách liên tưởng phong phú để có thể lựa chọn những tình tiết tiêu biểu đưa vào bài viết của mình.

Con người, ai cũng có một đời sống tâm hồn, tình cảm riêng. Mọi thứ trong đó đều đẹp đẽ và đáng trân trọng cho dù đó là thứ tình cảm nhỏ nhất. Đối với tôi, tình cảm đối với các con vật nuôi trong gia đình đã chiếm một góc không nhỏ từ lúc nào tôi cũng chẳng rõ.

Hồi tôi năm tuổi, cũng vừa lúc nhà tôi phải chuyển đến nhà mới. Tôi đã được nội đồng ý cho bế” Xanh” – bạn mèo dễ thương của tôi theo cùng. Cả ngày tôi chơi với Xanh, chán thì ngồi trước cửa ngắm nhìn xe cộ vút qua mà tha hồ tưởng tượng, Vẽ vời ra vô vàn câu chuyện, Cũng là một cái thú.Tôi chỉ tự kể mình nghe. Nội biết tôi ưa tĩnh nên không bao giờ hỏi khi thấy tôi ngồi một mình ngoài cửa cùng chú bạn Xanh.

Xanh của tôi trông rất tức cười, điều đặc biệt là trên người chú chẳng có tí xanh nào cả, kể cả đôi mắt cũng nâu hệt như bộ lông dày mượt, đuôi chúa chỉ ngắn một mẩu và thân mình tròn hết mực. Đó là do tôi vất vả nuôi nuôi nấng cậu bạn suốt mấy năm liền. Thú vị nhất là chú mèo Xanh hơn tôi những năm tuổi. Chắc vì già,càng lúc chú bạn càng ít chơi đùa, chỉ cuộn mình trong ổ, hết ngủ lại lim dim, tôi gọi sao cũng không dậy.

Không lẽ tôi cứ phải chơi một mình sao? Thật bất ngờ! Một bình minh trời đẹp, tôi tỉnh giấc bởi tiếng “meo meo” lạ tai. Trước mắt tôi là một cô mèo với bộ lông trắng muốt, cái đuôi dài cỡ bốn lần đuôi Xanh và đôi mắt đẹp vô cùng, xanh đại dương thăm thẳm.” Mèo mới lớn”- tôi gọi cô mèo như vậy, đó là món quà nội đã dành cho tôi nhân dịp tôi tròn sáu tuổi. Bà gọi cô mèo là Va, giống như khi đặt tên Xanh, là để hoài niệm về Xanh Pê Téc bua và Ma-xcơ-va, hoài niệm về nước Nga cổ kính, quật cường. Những điểu này về sau tôi mới hiểu.

Hằng ngày, tôi và Va cùng đùa vui,ném bóng, trốn tìm. Va rất lạ.Có những lúc, nó nghịch ngợm vô cùng nhưng nhiều khi từ chối hẳn mọi trò chơi.Va đủng đỉnh dạo khắp nhà, đuôi cứ dựng lên trời trông rất ngộ. Lạ hơn cả là cô mèo rất yêu quý Xanh,còn Xanh thì lại ghét Va, sử sự như một bà già khó tính. Xanh không cho Va lại gần mình, hễ thấy Va lại gần là nó lại gầm gừ, rồi luôn ăn phần của Va, mặc đĩa cơm to phần Xanh, hãy còn nguyên vẹn.

Rất hiền lành, Va sẵn sàng lùi ra để nhường cơm cho Xanh, chỉ khi Xanh đã ăn xong, Va mới dám mon men đến gần đĩa cơm thừa,nhiều bữa không còn gì thế là Va nhịn đói. Tuyệt nhiên,Va không hề lại gần đĩa cơm đầy của Xanh. Rồi cả những khi Xanh đang ngủ thì cô mèo Va lại chạy đến nép vào người Xanh, nhắm mắt lại. Xanh càng gầm gừ, càng đuổi đi thì Va càng tiến tới làm thân.

Thế rồi một lần,Xanh cáu quá đã cào vào má Va. Nó chạy vụt đi, hai ngày liền không về. Thật bất ngờ, ngày thứ ba Xanh đã đi tìm Va, và thấy cô mèo nằm trong gác bếp…Hôm ấy, Va được ăn phần cơm nguyên vẹn, lúc ngủ còn được tựa vào lưng Xanh.Nhưng tiếc rằng trời chỉ cho một ngày…

Ngày lễ Nô-en năm đó, tôi được tặng quả cầu có tám quả chông vàng xinh xinh với dây rút buộc quanh. Mỗi lần đập xuống đất, chuông kêu boong boong nghe thật vui tai. Tôi lại cùng Va chơi ném bóng. Va chơi rất nhiệt tình vì còn đang vui vì chuyện hôm trước. Va kêu meo meo khiến cho tôi cười nắc nẻ. Nhưng rồi, thời gian ngừng trôi, quả cầu bay xa, Va phóng theo. Đây là lòng đường. Xanh lao ra từ trong ổ, đột ngột. K…ké…t…xôn xao..tiếng người …đám đông…Xanh, Va..! Muộn, muộn thật rồi! Trước mắt tôi là 1 vũng máu, rất nhiều máu đỏ tươi.

Tôi lạc trong chân trời, bơ vơ giữa thinh không, vô tận. Tôi chạy mãi, mồ hôi lấm tấm, người nóng bừng lên như hòn lửa đỏ. Tôi lạc giữa sa mạc hoang sơ, môi rớm máu và cổ họng khô cháy. Tôi đã ốm đến một tháng. Mở mắt, Xanh lại gần giường vuốt vào má tôi, cái chân sau đi không vững vì đau. Còn Va, Va đã bay lên thiên đường, từ khi tôi còn lạc trong một chân trời vô tận. Và là thiên sứ hay sao mà vụt đến rồi lại vụt đi. Vội quá!

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Tả Con Chó Nhà Em Hay Nhất 🍀 15 Bài Văn Tả Chó Điểm 10

Tham khảo bài văn kể về kỉ niệm với con mèo học sinh giỏi với những tình tiết tự sự tiêu biểu và câu văn sáng ý.

Ồ! Đó là tiếng kêu của con mèo Trắng nhà tôi đấy, nó đang cùng đàn con gồm ba chú mèo dễ thương đến chơi với tôi. Nhìn nó chơi đùa với đàn con mà tôi thấy vui trong lòng, nhưng để có được như ngày hôm nay thì con Trắng nhà tôi đã trải qua rất nhiều khó khăn và vất vả. Chợt, tôi nhớ lại chuyện xảy ra lúc đó…

Đó là lúc cách đây khoảng một năm, khi đó tôi mới học lớp 7, con Trắng còn chưa đẻ con, nó mới 2 tuổi, còn trẻ lắm, nó hay chơi đùa với tôi. Trắng là một con mèo màu trắng buốt, thân hình thon thả, đuôi dài, chân nó với miếng đệm màu hồng mềm mại bên dưới giúp nó di chuyển mà chẳng gây ra tiếng động nào, dù chỉ là nhỏ nhất. Chiếc đầu nó thì nhỏ nhắn, xin xắn, kèm theo đôi tai và đôi mắt đen tuyền dễ thương trông rất đáng yêu.

Trắng rất thích nằm, nó có thể nằm ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, bất cứ thời điểm nào. Mọi người nghĩ rằng nó rất lười và thường thắc mắc: “Tại sao nó lại lười thế nhỉ?” Nhưng chỉ có tôi biết được, đó là lúc nó đang thư giãn, nó cần được gãi vào bộ lông mượt mà của nó, nhất là ở trên đầu và vùng bụng. Trắng rất thích chơi đồ chơi, nó thích những thứ tròn và lăn được, mà cuộn len là thứ nó thích nhất.

Biết được sở thích của nó nên lâu lâu tôi lại lén lấy một vài cuộn len của bà, và mỗi lần như thế thì lại có chuyện xảy ra: Nếu không phải là sợi len vương vãi khắp nhà thì cũng là những tiếng đỗ vỡ của bình hoa do Trắng làm lúc hứng chí. Ban đầu bố mẹ tôi còn la, nhưng nhiều lần như thế rồi đâm ra bố mẹ tôi xem đó như chuyện thường ngày. Từ đó bố mẹ coi Trắng như là một thành viên, không! Như là một người con quan trọng trong gia đình.

Tôi cứ tưởng mọi việc sẽ êm đềm trôi qua như vậy thì ngờ, vào một ngày, tôi chẳng thấy Trắng đâu cả! Tôi sợ lắm! Sợ không còn gặp lại Trắng nữa, sẽ không còn được vuốt ve bộ lông mượt mà của nó nữa, sẽ chẵng còn được mang những cuộn len cho nó chơi nữa! Thế là tôi bắt đầu đi tìm Trắng, ba mẹ tôi cũng vậy, tất cả mọi người trong nhà tôi, kể cả hàng xóm cũng vậy, ai nấy đều yêu mến Trắng và đang xôn xao đi tìm nhưng tìm mãi chẳng thấy nó đâu.

Tìm không thấy tôi bắt đầu lo lắng: “Chẳng lẽ Trắng ghét mình nên bỏ đi mất rồi? Nhưng nó đang mang bầu thì đi đâu được? Hay là nó đã bị ăn thịt rồi?” Chỉ nghĩ đến hai chữ “Hay là” đó thì tôi bần thần cả người, tôi chực khóc, nhưng vì là đàn ông nên tôi cố kìm nén cảm xúc của mình. Tôi buồn, tôi buồn lắm, tôi nhớ cái ngày nghe tin Trắng đã có thai thì tôi nhảy cẫng lên, vui mừng khôn xiết, mà bây giờ lại phải chấp nhận sự thật rằng: “Trắng đã ra đi, không còn trở lại nữa!”. Thấy tôi buồn thì bố tôi an ủi:

-Con à, đừng buồn nữa.

-Nhưng đâu tìm thấy Trắng đâu bố, chắc nó đi thật rồi?

Nghe được những câu đó, tôi dường như được tiếp thêm sức mạnh, tôi nghĩ chắc chắn sẽ tìm được Trắng thôi. Nhưng rồi 1 ngày, rồi 2 ngày, 3, 4,5 ngày mà vẫn chẳng thấy Trắng đâu cả, kể cả những tin gì về nó. Tôi bỗng hụt hẫng và bắt đầu ý nghĩ chấp nhận rằng Trắng đã đi thật rồi!

Ngày qua ngày, tôi chỉ biết ngồi cầm những vật mà Trắng thích: Cuộn len loại xịn mà tôi đã đích thân tặng, quả bóng đồ chơi, cả cái chén ăn cơm của nó nữa,… Tôi ngồi thẫn thờ nhìn lên bầu trời xa xăm, đám mây trôi lững lờ bỗng dừng lại, đàn chim bỗng ngừng hót, cây cối ngừng rơi lá,… Tất cả như chia sẻ nỗi buồn cùng tôi.

Tôi nghĩ mọi việc đã kết thúc! Nhưng nó chỉ thực sự kết thúc khi nó đã đến hồi kết. Vào ngày thứ 11 sau khi đăng báo, thì bất ngờ có một người đến nhà tôi và đưa cho tôi một thùng các-tông to đùng, tôi mở ra xem thì rất bất ngờ: Trong đó chính là Trắng và ba chú mèo con chưa mở mắt. Khi thấy Trắng bỗng nhiên bị sứt một bên tai thì tôi hỏi chú ấy:

-Chú ơi, tại sao con mèo nhà cháu bị như vậy?

-À, chú tên là Nam, nhà ở khu bên, chú làm nghề xe thồ, nhà chú cũng có nuôi một con mèo đực. Chú cứ thấy con mèo Trắng nhà cháu luẩn quẩn quanh nhà chú, chú định đuổi đi thì thấy nó có vẻ mệt mỏi, còn lại có bầu nữa, thế là chú cho nó ở lại và còn chia cho nó một phần cơm nữa. Cứ từ đó con mèo nhà chú và con mèo Trắng cứ quấn quýt lấy nhau, chú mới hiểu ra rằng: con mèo nhà chú đã lên chức làm cha, làm cha của những chú mèo nhỏ dễ thương chờ ngày chào đời.

Tôi định hỏi chú vài câu hỏi thì chú lại nói tiếp:

Chú cứ tưởng Trắng sẽ ở nhà chú luôn chứ! Ai ngờ tới ngày nó đẻ, chú mời bác sĩ thú y tới để khám, về đến nhà lại chẳng thấy nó đâu. Thế là chú tức tốc lên xe và đi tìm nó, chú lái đi khắp mọi nơi, mọi ngóc ngách mà chẳng tìm được, chú định bỏ cuộc thì nghĩ đến một nơi: bãi đất trống gần sân vận động. Chỉ nghĩ đến đấy thì chú liền phóng ngay xe đến nơi và chú đã được đền đáp: tiếng mèo Trắng kêu meo meo và vài tiếng kêu nhỏ của ba chú mèo con đang ở trong bụi rậm kia.

Chú vội vã chạy tới nhưng lại nhìn thấy 1 con mèo hoang tiến từ từ tới trước mặt con mèo kia và nhìn vào đám con của Trắng bằng ánh mắt ghê rợn, như muốn ăn tươi nuốt sống đàn mèo nhỏ kia. Trắng chưa biết được chuyện đó và nằm dài ra đất một cách mệt mỏi. Con mèo hoang bước từng bước tới chỗ đám mèo con, những chiếc vuốt sắc nhọn của nó vụt xuống định cào mèo con. Nghe thấy tiếng động và nhìn thấy cảnh tượng ấy, nó dùng hết sức chạy nhanh tới cào vào lưng con mèo hoang, đám mèo con đã thoát chết trong gang tấc.

Con mèo hoang tức lắm, nó quay lại và nhìn Trắng một cách giận dữ. Hai con mèo nhìn nhau mắt không rời, rồi chúng xù lông lên, kêu “meo meo” như để cảnh báo, và chúng bất ngờ xông vào nhau. Trắng dường như được tiếp thêm sức mạnh nhờ tình mẫu tử nên xông thẳng vào, bất chấp khó khăn. Hai con mèo đánh nhau dữ dằn, một trận đấu thật kinh hoàng!

Một lúc sau, con mèo hoang dường như đã mệt lả, nó không còn sức để chiến đấu nữa, nó nhảy đi chỗ khác và bỏ đi. Trắng dường như đã thấm mệt, nó nằm phịch xuống đất, tai rươm rướm máu. Chú từ bụi rậm nhìn thấy tất cả, vội chạy tới và ẵm con Trắng cùng đám con của nó về nhà. Nhờ bác sĩ thú y chăm sóc mà nó hồi phục rất nhanh, riêng trên tai thì hằn lại vết sẹo. Chữa cho nó xong, bác sĩ thú y liền đưa cho chú tờ báo, chú đọc và rất ngạc nhiên khi cháu là chủ nhân của Trắng. Đó là toàn bộ câu chuyện đấy cháu ạ!

Tôi mừng lắm, ôm chầm lấy Trắng và reo lên: “Mày giỏi quá Trắng ạ!”. Nó dường như hiểu được điều đó nên cũng kêu lên như vui mừng. Tôi cảm ơn chú, vẫy tay chào tạm biệt chú cho đến khi bóng chú đã khuất ở xa xa. Tôi đang nhớ lại chuyện cũ thì bỗng choang một tiếng. Tôi giật mình, thì ra là tác phẩm của Trắng cùng đàn con, đó là một chiếc bình vỡ. Tôi liền don dẹp ngay. Lúc ấy, trên bầu trời xa xăm, mây lại trôi, chim ca líu lo, cây lại rung rinh, và ông mặt trời chuẩn bị kết thúc công việc hôm nay, để lại một buổi hoàng hôn vô cùng rực rỡ.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Kể Về Con Vật Nuôi Mà Em Yêu Thích Lớp 8 🌟 15 Bài Hay

Kể về kỉ niệm với con mèo luyện viết là bài văn mẫu dành cho các em học sinh giúp nâng cao kỹ năng viết và cách thể hiện cảm xúc qua từng câu chữ.

Mỗi lần nghe tiếng mèo kêu, lòng tôi lại rộn rã tưng bừng. Một hôm, mẹ tôi mang một con mèo con về để nuôi khiến những kỉ niệm giữa tôi với con mèo Mi Mi dường như lại ùa về trong tâm trí tôi. Và khắc sâu trong lòng tôi nhất đó là kỉ niệm tôi đổ tôi cho Mi Mi làm vỡ chiếc lọ hoa quý.

Hồi ấy, nhân ngày sinh nhật tôi mẹ tặng cho tôi một chú mèo con. Nhìn thật non lướt nhưng xinh xắn dễ thương. Tôi chẳng hiểu mẹ tôi tặng tôi món quà này để làm gì và dần tôi mới hiểu. Chú mèo cứ thế lớn lên theo năm tháng, chú càng lớn càng ra dáng anh dũng, oai phong. Chú có thân mũm mĩn dài như một chiếc phích con. Cái đầu Mi Mi tròn như nắm tay trẻ em. Đặc biệt hơn, đôi mắt chú long lanh to tròn như hai hòn bi ve, lúc thì mở to tròn, lúc thì lim dim, đôi mắt ấy vào ban đêm sáng như viên pha lê. Đôi tay chú lúc nào cũng vểnh để nghe ngóng.

Ấn tượng nhất vẫn là bộ ria dài nhọn như chùm kim bạc bé nhỏ. Chú có bốn chân nhỏ rất nhanh nhẹn, dưới những móng viết sắc là một miếng thịt cứng dày như miếng đệm nên Mi Mi đi rất nhẹ nhàng. Mi Mi chung sống với tôi từ nhỏ nên nó yêu thương và rất quý mến tôi. Nó ngoan ngoãn và luôn chơi đùa với tôi.

Nhờ món quà quý giá này của mẹ mà tôi mới hiểu thấm thía được ý mẹ muốn truyền đạt cho tôi. Mẹ muốn tôi phải biết yêu thương con vật, phải biết quý trọng mọi thứ và mẹ muốn tôi tự hoàn thiện mình hơn. Tôi và Mi Mi cứ thế lớn lên và gắn bó gần gũi với nhau cùng với những kỉ niệm đẹp đẽ trong sáng nhưng cũng không ít niềm vui nỗi buồn. Tuy vậy tôi vẫn nhớ nhất là lúc tôi đổ tội cho Mi Mi và cũng là lúc tôi không được nhìn thấy Mi Mi nữa.

Hôm ấy, vào một buổi sáng chủ nhật, mẹ tôi bảo tôi ở nhà dọn dẹp nhà cửa. Tôi nghe mẹ và tung tăng cầm chổi lau dọn. Mi Mi cũng vậy, thấy tôi bận rộn nó cũng quấn quýt bên chân tôi dụi đầu vào chân tôi như nũng nịu. Tôi vừa lau vừa vui chơi, đùa giỡn với chú. Chú cứ đứng bên tôi cào nhẹ vào chân tôi như muốn chơi đùa tiếp. Tôi để chiếc khăn trên bàn và cúi xuống bế nó ngồi trên bàn. Tôi vừa lau vừa đùa giỡn, chẳng may tôi vô tình đẩy chiếc lọ hoa rơi xuống đất một tiếng ” choang” vang lên. Tôi nhìn mà sợ hãi, mặt tôi tái lại khi nhìn thấy những mảnh vỡ trên nền nhà tôi lẩm bẩm:

-Đây…. đây…. chẳng phải là….

Đúng lúc đó, mẹ tôi chạy tới. Mẹ tôi hỏi.

-Có chuyện gì hả con?

Nhìn mẹ xem, nét mặt mẹ lúc này tự nhiên rúm lại như rất tức giận, phải rồi, cái lọ hoa ấy là đồ cổ rất quý hiếm và rất đắt và khó có thể tìm được chiếc bình nào đẹp như thế. Vả lại, đó là cái bình mà ông nội đã để lại cho bố tôi trước khi qua đời. Mẹ tôi hốt hoảng hỏi?

-Ai làm vỡ cái bình này.

Tôi run run nhặt những mảnh vỡ, người run cầm cập, lúc này tôi chẳng biết trả lời mẹ như thế nào? và nếu trả lời mẹ sẽ đánh tôi mất. Tôi nhìn mẹ rồi nhìn con mèo đang ngồi trên bàn, miệng tôi liền lẩm bẩm.

-Dạ… mẹ… Mi Mi làm vỡ ạ!

Trời ơi! tại sao tôi lại nói vậy! Mi Mi có làm gì đâu, nó không có tôi mà. Mẹ tôi chằm chằm nhìn vào chú, mẹ nhìn cái chổi quật vào người nó mấy phát. Nó cứ rên lên ” meo meo” và ngơ ngác nhìn tôi như muốn hỏi tôi ” tại sao mẹ chị lại đánh em”. Tôi thương nó quá nhưng biết làm thế nào? tôi khóc nức nở xin mẹ đừng đánh Mi Mi nữa, tội nghiệp cho nó. Dường như nó đã hiểu chuyện và không kêu nữa, nó cứ đưa cặp mắt chừng chừng nhìn vào tôi. Giờ đây, nó không nhìn tôi với ánh mắt âu yếm, nũng nịu nữa mà bây giờ nó muốn nhìn tôi như muốn trách tôi tại sao lại đổ tội cho nó.

Buổi sáng ấy cuối cùng cũng trôi qua, mọi việc lại diễn ra bình thường. Chỉ tôi và Mi Mi là khóc, nó không theo tôi nữa, nó cứ nằm im trong góc nhà. Tôi cũng đau lắm, thương nó nhiều lắm, tất cả là tại tôi mà, tôi làm vỡ bình hoa đó mà. Nhưng phải làm sao đây, tôi đã lỡ nói ra rồi, và tôi cũng không có lòng dũng cảm để nhận lỗi.

Tôi mong chuyện này qua nhanh và tôi và Mi Mi lại thân mật như trước. Bỗng nhiên, từ sân tiếng chó sủa kêu vang, tiếng mèo kêu. Trời, đó là bác mua chó mèo, bác đến đây làm gì. Mẹ tôi bảo vào bắt Mi Mi, tôi sững người, nhìn bác ấy tiến đến chỗ mèo bế nó đi, tại sao tôi không chạy đến mà ôm nó. Tại sao chân tôi không đi được. Tôi cứ đứng yên, đôi chân tôi như bị đóng chặt trên đá vậy. Mi Mi cũng thế, nó cứ nằm im để bác ấy bắt. Tôi bỗng òa lên khóc và van xin mẹ đừng bán nó đi. mẹ tôi vẫn kiên quyết bán chú, mà nói:

-Bán nó đi, để lại nuôi làm gì để nó phá hoại à?

Tôi vẫn năn nỉ mẹ. Tôi nhìn Mi Mi vẫn ánh mắt ấy nói cứ nhìn tôi như muốn mắng, muốn trách tôi. Nhưng tất cả đều đã quá muộn quá, bác bắt Mi Mi vào lồng rồi ngồi lên xe máy đi, bóng Mi Mi xa dần xa dần rồi mắt hẳn. Tôi như gục ngã xuống, bầu trời như tối sầm lại đổ lên đầu tôi vậy. Lúc này, tôi như một xác chết không hồn.

Rồi năm tháng cứ thế trôi qua, mọi người trong gia đình không ai còn nhớ đến chuyện đó cả, nhưng tôi vẫn nhớ mãi chuyện đó với một tâm trạng vô cùng ân hận, đau đớn. Tôi quyết định đặt con mèo mới mua này tên là Mi Mi để bù đắp những mất mát và Mi Mi tôi yêu quý đã phải chịu. Tôi tự hứa sẽ chăm sóc thật tốt cho con mèo Mi Mi mới này và sẽ không bao giờ lừa gạt nó.

SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free

Đón đọc bài văn kể về kỉ niệm với con mèo giàu cảm xúc với những dòng viết hồi tưởng nhẹ nhàng và những thông điệp ý nghĩa.

Ngày lạnh nhất của đợt không khí lạnh nửa cuối mùa đông, tôi nằm cuộn mình cả ngày trong căn phòng nhỏ tự dưng nhớ Jimy khủng khiếp. Con mèo thứ hai tôi từng nuôi và có lẽ là con mèo lạ lùng nhất tôi từng biết.

Bảy năm, đã quá tuổi trung niên với loại mèo kỳ lạ, cũng nhanh vậy mà ngỡ như chúng đã sống đến quen thuộc cả sự già cỗi. Ngày bế Jimy về nhà tôi còn là một đứa trẻ vừa bước vào cấp II, con mèo lông vàng bé xíu xiu bám chặt mấy cái móng còn chưa cứng cáp vào áo tôi, thỉnh thoảng lại hoảng sợ kêu lên. Mẹ không thích mèo nên tôi và chị Hai đã phải đấu tranh mãi mới có thể nuôi Jimy, mà thỉnh thoảng Mẹ vẫn hay càu nhàu khó chịu vì nó.

Tôi không còn nhớ được gì nhiều ngày Jimy còn nhỏ, nhưng hình như có một lần Jimy nằm dưới xe máy của Mẹ trong sân, Mẹ dắt xe vào nhà và cứ thế đi qua người nó. Vậy mà rồi Jimy cũng khoẻ lại và tiếp tục lớn lên, loài mèo như thể có năng lực tái sinh vậy đấy, và Jimy của tôi cũng đã thật kiên cường.

Mẹ bảo tiếng thở của tôi vào mùa đông rất giống tiếng thở của loài mèo khi ngủ say. Là vì cơ thể tôi rất hay không khoẻ vào mùa đông, nhưng mãi rồi tôi cũng không quan tâm đến điều đó nữa. Bây giờ, thỉnh thoảng tiếng thở về đêm của tôi cũng vẫn vậy, mà chỉ là thỉnh thoảng thôi.

Jimy là một con mèo nông thôn đặc trưng, màu lông vàng rất dễ bắt gặp và thói quen tự do đi khắp mọi nơi xung quanh nhà. Rất rất nhiều thời gian con mèo dễ tính ấy dành để nằm ngủ dưới những bóng cây đung đưa trên con ngõ nhỏ, chơi đùa và có khi là đánh nhau với những con mèo hàng xóm, đôi lần lại đi đâu đó vài ngày rồi trở về. Một cuộc sống giản dị bình thường như thế.

Khi Jimy không còn là một con mèo với tuổi trẻ dư thừa sức khoẻ, tôi không nhận ra được là từ lúc nào, Jimy ở nhà nhiều hơn, hay nằm lơ đãng ngủ trên bậc hiên nhà. Trong những buổi chiều không biết làm gì, tôi ngồi vừa ôm Jimy vừa đọc vài trang sách, thỉnh thoảng nghe tiếng chuông gió trước hiên reo lên nhẹ nhàng.

Hình như Jimy rất hay ngủ mơ về một điều bí mật gì đó, những lần ngủ say trong lòng tôi, chân Jimy lại co giật và cả người nó run lên, lần nào cũng thế cả. Jimy giấu điều đó cho riêng mình, và rồi đã chẳng ai có thể tìm thấy được nữa, cả tôi cũng thế…

Jimy rời đi vào một ngày cuối mùa hè, mà chẳng hiểu vì sao tôi lại nhớ hôm đó hình như trời trở lạnh, và Jimy đã chẳng còn tái sinh thêm một lần nào nữa… Đã hơn một năm rồi, thỉnh thoảng tôi vẫn cứ muốn hỏi, liệu Jimy đã sống hạnh phúc không?

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Tả Con Chim Hay Nhất 🌟 15 Bài Văn Tả Về Loài Chim Điểm 10

Bài văn kể về kỉ niệm với con mèo ý nghĩa giúp các bạn học sinh có thêm những ý tưởng và cảm hứng để hoàn thành bài viết của mình một cách tốt nhất cũng như đạt điểm cao.

Trong thế giới loài vật, dù là con vật nuôi trong nhà hay con vật hoang dã đến từ rừng xanh thì mỗi con vật có một đặc điểm riêng về ngoại hình, thói quen và những thuộc tính sinh hoạt hàng ngày. Nó không chỉ hấp dẫn người lớn mà đặc biệt kích thích tính tò mò, sự tìm hiểu và khám phá của trẻ nhỏ. Với em con vật nuôi mà em thích nhất chính là con mèo. Con mèo ấy là do ông ngoại tặng em vào sinh nhật thứ 8. Vừa nhìn thấy chú là em đã vui mừng và thích thú lắm! Em thường gọi chú với cái tên dễ thương là Mi.

“Meo, meo, meo”, hôm nào cũng vậy, mỗi khi em ngồi vào bàn học bài là chú Mi lại đến nằm dụi đầu vào chân em. Mi thân thiết và gắn bó với em từng ngày. Ngày bà ngoại cho, con mèo chỉ bằng chai nước khoáng nhỏ nhưng bây giờ thì nó đã to bằng cái chai Cô-ca bự rồi. Toàn thân chú được bao phủ một màu vàng và điểm thêm vài vệt trắng làm cho chiếc áo của chú lại càng thêm đẹp. Cái đầu của chú to hơn quả bóng ten-nít một chút. Đôi mắt tròn như hai hòn bi ve và sáng như đèn pha.

Cái mũi phơn phớt hồng, lúc nào cũng ươn ướt như người bị cúm sổ mũi vậy. Cái tai của chú mới thính làm sao! Chỉ một tiếng động nhỏ, chú đều phát hiện được đó là tiếng gì, có cần phải giải quyết hay không. Cái tai và cái mũi đó chính là cái ra-đa của chú để phát hiện những tên chuột láu lỉnh hay phá hoại, ăn trộm thóc gạo của người. Cổ Mi được quàng một chiếc khăn màu trắng đục. Bốn cái chân không cao lắm so với thân hình chú nhưng lại chạy rất nhanh.

Dưới bàn chân là một lớp thịt dày, mịn, màu hồng nhạt. Bà em bảo những miếng thịt đó giúp Mi di chuyển nhẹ nhàng, không gây một tiếng động nhỏ, làm cho nhiều chú chuột không ngờ. Những chiếc vuốt của chú rất nhọn và sắc. Đã có lần, những chiếc vuốt đó đã để lại dấu vết trên tay em khi em đùa vui, nghịch ngợm với chú. Chính những chiếc vuốt đó là thứ vũ khí lợi hại của chú mà mỗi con chuột khi nhìn thấy phải kinh hoàng. Mỗi khi muốn chơi với em, chú lại dùng đầu dụi vào tay em rồi lấy những cái vuốt ấy cào cào nhẹ vào bàn tay em.

Chao ôi ! Cái đuôi của chú mới dẻo làm sao ! Chiếc đuôi như một cái dấu ngã, chẳng giấu vào đâu được. Hôm nào cũng vậy, chú ta cứ ngủ khì. Thế nhưng lũ chuột cũng chẳng dám ra quấy phá vì chú rất tinh, cũng có thể lũ chuột cảnh giác, nghĩ là Mi đang rình chúng đấy. Ban đêm, Mi ta mới đi làm cho chủ. Chú ta biết hết đường đi lối lại của bọn chuột. Không con chuột nào chạy thoát nếu chú đã phát hiện được.

Có lần, em được chứng kiến nó bắt chuột ban ngày. Có lẽ, con chuột đó đói quá phải đi ăn trộm ban ngày. Chú Mi ngụy trang rất khéo, chú nằm khuất sau cái chổi cạnh chân hòm cáng thóc. Một con chuột nhắt rất tinh ranh, mắt lấm lét, đi nhẹ nhàng đến định trèo lên hòm thóc để chui vào ăn thóc. Mi nằm yên như đang ngủ. Bỗng “chụp” một cái, chỉ nghe thấy tiếng “chít” một cách tuyệt vọng, Mi ta đã vồ gọn con mồi trong móng vuốt của chú. Hả hê với chiến thắng của mình, Mi tha con chuột đó ra vườn.

Chú nhả con chuột ra, lấy cái chân trước vờn đi vờn lại con chuột đó. Con chuột vội chạy đi nhưng chạy sao thoát. Em nghĩ con chuột đó chỉ sợ đã chết. Thế rồi, chú ta ung dung ngồi chén hết con chuột nhắt đó. Mỗi lần chú bắt được chuột, em đều vuốt ve động viên chú. Đến bữa, em lại thưởng cho chú những miếng ăn ngon nhất. Mi tỏ vẻ sung sướng lắm. Mi ăn rất ít, hàng ngày chú ta ăn không hết một bát cơm. Khi ăn, chú ta cứ nhỏ nhẻ từng tí một. Em thường nghe mọi người nói “ăn như mèo” quả không sai.

Dù đói đến đâu thì Mi cũng ăn rất từ tốn. Khác với Vàng – chú cún tinh nghịch nhà em, cứ ăn hùng hục. Vàng và Mi rất thân với nhau. Ngày nào, chúng cũng chơi đùa với nhau mà không có xích mích gì cả. Buổi sáng, khi nắng vàng trải khắp sân, Mi nằm duỗi dài bốn chân, mắt lim dim, trông thật đáng yêu. Thỉnh thoảng, nó lại cho tay lên mặt cào cào, như là nó đang rửa mặt. Buổi tối, khi cả nhà ăn cơm xong, bao giờ Mi cũng tranh thủ ngồi vào lòng em nũng nịu.

Em rất yêu quý Mi. Mi không chỉ là vật kỉ niệm của ông ngoại tặng cho em mà nó còn là “dũng sĩ diệt chuột” của nhà em. Mi giúp nhà em rất nhiều trong chiến dịch diệt chuột. Từ ngày có Mi, nhà em không còn lo lũ chuột quấy phá. Em sẽ chăm sóc Mi cho khỏe, chơi với Mi vui vẻ để làm theo đúng lời dặn của bà em khi bà tặng Mi cho em.

Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone

“Meo…meo…meo” hôm nào cũng vậy, cứ khi em ngồi vào bàn học là chú mèo lại đến nằm dụi đầu vào chân em. Đó là chú mèo bà ngoại đã tặng em hồi năm ngoái.

Con mèo vừa tròn một tuổi tên là MiMi. Nó là giống mèo cái. MiMi khoác lên mình bộ áo màu vàng điểm thêm vài vết trắng làm cho chiếc áo của cô càng thêm xinh đẹp. Cô rất thích chơi với trái banh ten-nit của em. Cái đầu tròn như trái vú sữa. Đôi mắt long lanh như hai hòn bi ve và sáng như đèn pha. Cái mũi nhỏ xinh màu hồng lúc nào cũng ươn ướt. Miệng cô chúm chím dễ thương. Tuy vẻ bề ngoài là vậy nhưng bên trong có hàm răng nhọn hoắt, lúc nhe răng trông thật đáng sợ. Đôi tai hình tam giác luôn vểnh lên để nghe ngóng. Tai cô mới thính làm sao!

Chỉ một tiếng động nhỏ cô đều phát hiện được. Hai bên má có bộ ria mép trắng muốt, trông MiMi thật oai phong. Bốn cái chân thon thon giúp cô đi lại nhẹ nhàng như người mẫu đang trình diễn thời trang. Nhưng lúc cần MiMi chạy rất nhanh. Dưới bàn chân là tấm nệm êm nhỏ, trong tấm nệm nhỏ ấy cất giấu một bộ vuốt sắt bén, và đó là vũ khí lợi hại nhất của cô ta. Đã có lần những chiếc vuốt ấy đã để lại dấu vết trên tay em khi em nghịch với cô.

Ôi! cái đuôi mới dẻo làm sao! Chiếc đuôi như một dấu ngã chẳng giấu vào đâu được. Những ngày mùa hè, buổi sáng thức dậy MiMi thường ra ngoài sân tắm nắng. Lấy chiếc lưỡi của mình liếm bộ lông vàng mượt và chơi đùa giởn với bóng của mình. Còn mùa đông MiMi thường nhảy phóc lên bộ sa lông đánh một giấc ngủ no say. Đặt biệt lúc ngủ MiMi luôn nhịp cái đuôi trông ngộ nghĩnh làm sao!

Xinh đẹp là thế nhưng những lúc rình và bắt chuột trông cô như một chiến binh. Một hôm em thấy MiMi nằm sau thùng gạo để rình bắt chuột. Một con chuột nhắt mon men đến bên nồi cơm đang để hớ hênh. Bất chợt, phóc một cái, MiMi đã vồ chú chuột nhắt nằm cứng ngắt trong đôi móng vuốt sắc của cô. Vậy là MiMi có một bửa ăn ngon lành và đầy tự đắc.

Em rất yêu quý MiMi và xem cô như người bạn thân thiết. Sau những lúc học hành căng thẳng em hay chơi với cô. Em luôn chia sẻ những buồn vui của mình với MiMi. Nó không chỉ là con vật kỉ niệm của bà ngoại tặng cho em mà còn được em phong là “Dũng sĩ diệt chuột” giỏi nhất mà em từng nuôi.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Tả Con Gà Trống Nhà Em 🌹 15 Bài Văn Tả Hay Nhất

Bài văn kể về kỉ niệm với con mèo đơn giản sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích giúp các em học sinh ôn tập hiệu quả.

“Mon ơi lại đây chơi với chị nè!” Tôi vẫn nhớ như in tiếng gọi đó mỗi lúc tôi rảnh rỗi muốn chơi đùa cùng Mon. Cũng đã một khoảng thời gian dài trôi qua rồi, nhưng tôi vẫn chưa thể quên được Mon- chú mèo bé bỏng đáng yêu tôi coi như một người bạn của mình.

Tôi nhớ lắm cái ngày đầu tiên Mon trở thành “thành viên” của gia đình tôi. Mon là món quà bố hứa tặng cho tôi vì tôi đạt kết quả tốt. Hôm nay là ngày bố trở về sau tuần dài đi công tác xa nhà. Lúc đón bố tôi mong ngóng và chờ đợi lắm, vì đã một tuần bố không cạnh tôi. Bố xuống xe và cầm một chiếc lồng nhỏ có chú mèo trắng đáng yêu, nói rằng đây là phần thưởng bố dành cho tôi. Tôi thích lắm. Chú mèo trắng mới đẹp làm sao! Kể từ ngày đó, chú mèo trở thành người bạn mới của tôi.

Chú mèo không nặng lắm. Chú khoác trên mình bộ lông trắng dày,và mượt. Bởi vậy tôi liền đặt tên cho chú là Mon. Tôi thích mỗi lần ôm Mon vào lòng giống như ôm một chú gấu bông vậy. Hai mắt Mon tròn xoe lúc nào cũng long lanh như hai giọt nước. Cái mũi chú lúc nào cũng ươn ướt như người bị cảm. Hai cái tai nhỏ nhắn xinh xinh lúc nào cũng vểnh lên nghe ngóng. Bốn chân dài với những móng vuốt sắc nhọn là vũ khí để Mon tự vệ khi gặp kẻ thù.

Mon nhanh nhẹn và thông minh lắm. Mỗi lần tôi đi học về đều thấy Mon đứng đợi ở trước cổng vẫy vẫy đuôi chào tôi. Những lúc tôi ngồi học bài, Mon thường nhẹ nhàng đến bên tôi, dụi dụi đầu vào chân tôi như nũng nịu, như đòi tôi nựng. Những lúc ấy, tôi bèn bế Mon lên, vuốt vuốt Mon và ôm Mon vào lòng.

Mon thân với tôi lắm. Những lúc rảnh rỗi tôi thường dẫn Mon đi chơi. Từ lúc nào chẳng biết tôi coi Mon như một người bạn thân của mình. Nhưng ngày hôm ấy, một ngày quá đau đớn xảy ra với tôi, ngày mà Mon rời xa tôi mãi mãi. Hôm ấy, tôi dắt Mon đi chơi xa hơn mọi lần. Trong lần mải chạy theo những trò chơi cùng đám bạn mà để Mon lạc mất. Lúc mặt trời ngả bóng, khi cuộc chơi đã tàn tôi mới sực nhớ đến Mon và hoảng mình khi không thấy Mon nữa. Tôi chạy đi tìm, gọi trong tiếng khóc nhưng vẫn không thấy Mon đâu. Tất cả là do tôi vô tâm, không để ý tới Mon. Tôi đã để lạc mất Mon mãi mãi.

Tôi vẫn chưa nguôi buồn khi Mon rời xa tôi mãi mãi. Tôi sẽ mãi nhớ tới Mon, mãi nợ Mon một lời xin lỗi, lời xin lỗi không bao giờ được hồi đáp.

Đọc nhiều hơn 🌻 Tả Một Con Vật Mà Em Yêu Thích 🌻 15 Bài Văn Tả Vật Nuôi

Cập nhật thông tin chi tiết về Top Bài Thơ Về Mùa Xuân Ngắn Hay Và Nổi Tiếng Nhất 2023 trên website Kmli.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!